3081. Vessantaraṃ taṃ pucchāmi sakuṇā bhaddamatthu te, rajjaṃ kāretukāmena kiṃsu kiccaṃ kataṃ varaṃ. 

3081. “Này chim, chúc điều tốt lành đến chim. Trẫm hỏi chim Vessantara, với ý muốn trị vì vương quốc, phận sự nào được thực hiện là tốt nhất?”

1. Điều nầy cha muốn hỏi Ves-san,
Cầu chúc cho con yêu được lạc an:
Với một vị vua mong trị nước,
Sống sao tốt đẹp nhất trần gian?

3082. Cirassaṃ vata maṃ tāto kaṃso bārāṇasiggaho, pamatto appamattampi pitā puttaṃ acodayi. 

3082. “Quả thật, cha Kaṃsa thân yêu, người cai trị thành Bārāṇasī, lâu nay bị xao lãng, đã quở trách con, đứa con trai không bị xao lãng.

2. Kam-sa, chúa tể xứ Kà-si,
Phóng dật buông lung đã lắm khi,
Thúc dục con, dù đầy nhiệt huyết,
Phải luôn tỏ nhiệt huyết tràn trề.

3083. Paṭhameneva vitathaṃ kodhaṃ hāsaṃ nivāraye, tato kiccāni kāreyya taṃ vataṃ āhu khattiya. 

3083. Tâu vị Sát-đế-lỵ, trước tiên nên ngăn chặn sự không chân thật, sự giận dữ, sự cười giỡn. Sau đó, nên làm các việc cần phải làm; người xưa đã nói việc ấy là bổn phận.

3. Trước hết vị vua phải vứt đi,
Mọi điều giả dối, giận, khinh khi,
Phải làm những việc cần hành động,
Nếu chẳng làm xong, sẽ lỗi thề.

3084. Yaṃ tvaṃ tāta tape kammaṃ pubbe katamasaṃsayaṃ, ratto duṭṭho ca yaṃ kayirā na taṃ kayirā tato puna.

3084. Cha thân, hành động khổ hạnh nào đã được làm trước đây theo thông lệ, là việc mà cha có thể làm khi bị luyến ái và sân hận; từ đây, không nên làm việc ấy nữa.

4. Nếu trước kia đi lạc hướng tà,
Vì tham sân hướng dẫn đường vua,
Rõ ràng phải sống ăn năn tội,
Luyện tập để đừng phạm lỗi xưa.

3085. Khattiyassa pamattassa raṭṭhasmiṃ raṭṭhavaḍḍhana, sabbe bhogā vinassanti rañño taṃ vuccate aghaṃ.

3085. Tâu bậc làm hưng thịnh đất nước, tất cả của cải ở đất nước của vị Sát-đế-lỵ đã bị xao lãng đều bị tiêu tan; việc ấy gọi là sự bất hạnh của vị vua.

5. Khi vua trị nước quá buông lung,
Đối với thanh danh, chẳng thật chân,
Mọi sự phồn vinh đều biến mất,
Chỉ còn ô nhục với hôn quân.

3086. Sirī ca tāta lakkhī ca pucchitā etadabravuṃ, uṭṭhānaviriye pose ramāhaṃ anusūyake.

3086. Cha thân, nữ thần Sirī và nữ thần Lakkhī, khi được hỏi, đã nói điều này: ‘Ta ưa thích những người sốt sắng, tinh tấn, không đố kỵ.’

6. Thần nữ Cát tường với Vận may,
Khi con hỏi, đã đáp như vầy:
"Chúng ta thích hạng người can đảm,
Nghị lực, thoát ly tật đố này".

3087. Usūyake dūhadaye purise kammadūsake, kālakaṇṇī mahārāja ramatī cakkabhañjanī.

3087. Tâu đại vương, nữ thần Kālakaṇṇī, vị thần phá hoại vận may, ưa thích những kẻ đố kỵ, có tâm xấu xa, những kẻ phá hoại công việc.

7. Rủi ro luôn phá hoại phồn vinh,
Thích những người làm các ác hành,
Những kẻ nhẫn tâm đầy độc ác,
Trong tâm ganh tỵ cứ dần sinh.

3088. So tvaṃ sabbesu suhadayo sabbesaṃ rakkhito bhava, alakkhiṃ nuda mahārāja lakkhyā bhava nivesanaṃ.

3088. Tâu đại vương, cha đây hãy có tâm tốt lành đối với tất cả, hãy bảo vệ tất cả, hãy xua đuổi nữ thần Alakkhī, hãy là chỗ trú của nữ thần Lakkhī.

8. Thân thiết mọi người, tấu Đại vương,
Để cho mọi sự được an toàn,
Tránh xa Vận rủi, song làm chỗ,
An trú Vận may thật vững vàng.

3089. Salakkhī dhitisampanno puriso hi mahaggato, amittānaṃ kāsipati mūlaṃ aggañca chindati.

3089. Bởi vì, là người có sự may mắn, đầy đủ sự dũng cảm, đi đến sự lớn mạnh, vị chúa của xứ Kāsi chặt đứt cả gốc lẫn ngọn của các kẻ thù.

9. Con người tốt số lại can trường,
Ngự trị Kà-si, chính phụ vương,
Tiêu diệt địch quân từ gốc ngọn,
Hiển nhiên sẽ đạt đại vinh quang.

3090. Sakkopi hi bhūtapati uṭṭhāne nappamajjati, sakalyāṇe dhitiṃ katvā uṭṭhāne kurute mano.

3090. Bởi vì, ngay cả Thiên Chủ Sakka, vị chúa của các sanh linh, không xao lãng trong việc sốt sắng, sau khi tạo ra sự dũng cảm trong việc phước thiện, ngài thực hiện sự sốt sắng ở tâm.

10. Thiên chủ Ska-ka mãi ngắm trông,
Tấm lòng can đảm ở phàm nhân,
Vì ngài giữ vững lòng can đảm,
Nhận thức đó là chính thiện lương.

3091. Gandhabbā pitaro devā sajīvā honti tādino, uṭṭhahato appamajjato anutiṭṭhanti devatā.

3091. Các vị Càn-thát-bà, các vị Phạm Thiên, chư Thiên có cuộc sống là như thế ấy. Chư Thiên ngự kế cận các vị sốt sắng, không xao lãng.

11. Thác-bà, Thiên chúng lẫn loài người.
Ca ngợi minh quân ấy hết lời,
Các bậc thần linh đều ủng hộ
Tán dương nhiệt huyết lẫn anh tài.

3092. So appamatto akuddho tāta kiccāni kāraya, vāyamassu ca kiccesu nālaso vindate sukhaṃ. 

3092. Cha thân, cha đây hãy ra lệnh làm các việc cần phải làm, không được xao lãng, không nóng giận, và hãy nỗ lực trong các phận sự. Người biếng nhác không tìm thấy hạnh phúc.

12. Nỗ lực làm bao việc chánh chân,
Dù ai phỉ báng, chẳng buông lung,
Chuyên tâm tinh tấn làm điều thiện,
Phóng dật chẳng mong đạt phước phần.

3093. Tattheva te vattapadā esāva anusāsanī, alaṃ mitte sukhāpetuṃ amittānaṃ dukhāya ca. 

3093. Ngay trong trường hợp ấy, các phần công việc của bệ hạ chính là các lời khuyên bảo ấy; chúng là vừa đủ để đem lại hạnh phúc cho các bạn bè và gây khó khăn cho các kẻ thù.”

13. Đây là phận sự của quân vương,
Dạy bảo phụ vương bước đúng đường,
Đủ đạt phước phần cho thiện hữu
Hoặc mang sầu não đến cừu nhân.

3094. Sakhī tuvaṃ kuṇḍalinī maññasi khattabandhunī, rajjaṃ kāretu kāmena kiṃsu kiccaṃ kataṃ varaṃ. 

3094. “Này chim Kuṇḍalinī, con là thân nhân. Này nữ thân quyến của dòng Sát-đế-lỵ, con nghĩ thế nào (về câu hỏi), với ý muốn trị vì vương quốc, phận sự nào được thực hiện là tốt nhất?”

14. Kun-da-li, ái điểu hoàng gia,
Con hãy đáp câu hỏi của cha:
Kẻ muốn lên ngôi vua trị nước,
Sống sao tốt nhất cõi người ta?

3095. Dveva tāta padakāni yattha sabbaṃ patiṭṭhitaṃ, aladdhassa ca yo lābho laddhassa anurakkhanā.

3095. “Cha thân, có hai nguyên nhân chính, căn cứ vào đó, mọi thứ được thiết lập: Đạt được cái chưa đạt được, và bảo vệ cái đã đạt được.

15. Vấn đề được đặt, hỡi thân bằng,
Trong cặp phương châm thật rõ ràng:
Gìn giữ những gì ta phải đạt,
Tránh xa những việc chẳng nên làm.

3096. Amacce tāta jānāhi dhīre atthassa kovide, anakkhākitave tāta asoṇḍe avināsake.

3096. Cha thân, cha hãy nhận biết các quan đại thần (nào là) sáng trí và rành rẽ về mục đích, không cờ bạc, không gian lận, không nghiện ngập, không phung phí.

16. Quốc sư hãy chọn các hiền nhân,
Thấy lợi ích vua thật rõ ràng,
Không phóng đãng và không phí phạm,
Thoát ly cờ bạc, rượu say nồng.

3097. Yo ca taṃ tāta rakkheyya dhanaṃ yañceva te siyā, sūtova rathaṃ saṅgaṇhe so te kiccāni kāraye.

3097. Cha thân, người này có thể gìn giữ tài sản thuộc về cha, tựa như người đánh xe có thể chăm sóc cỗ xe, người ấy có thể thực hiện các việc cần phải làm của cha.

17. Người vậy hộ phòng vua chánh chân,
Nhiệt tình bảo vệ các kho tàng,
Như người điều ngự vương xa ấy,
Lèo lái giang sơn đến phú cường.

3098. Susaṅgahītantajano sayaṃ vittaṃ avekkhiya, nidhiñca iṇadānañca na kare parapattiyā.

3098. Với nhân sự nội bộ khéo được chăm sóc, nên đích thân xem xét tài sản, của cải cất giấu, nợ nần, và vật biếu xén. Không nên làm các công việc đem lại thu nhập cho kẻ khác.

18. Luôn trị thần dân thật khéo khôn,
Giữ gìn đúng đắn các kho lương,
Đừng giao kẻ khác cho vay mượn,
Phải tự mình làm đúng kỷ cương.

3099. Sayaṃ āyaṃ vayaṃ jaññā sayaṃ jaññā katākataṃ, niggaṇhe niggahārahaṃ paggaṇhe paggahārahaṃ.

3099. Nên đích thân biết về thu thập và chi tiêu, nên đích thân biết về việc đã làm hay chưa làm, nên khiển trách kẻ đáng bị khiển trách, nên cất nhắc người đáng được cất nhắc.

19. Những ích lợi hay việc hại mình,
Đại vương phải biết thật phân minh,
Phải chê trách kẻ mang lầm lỗi,
Khen thưởng những người thật xứng danh.

3100. Sayaṃ jānapadaṃ atthaṃ anusāsa rathesabha, mā te adhammikā yuttā dhanaṃ raṭṭhañca nāsayuṃ. 

3100. Tâu đấng thủ lãnh xa binh, ngài nên tự mình chỉ dạy dân chúng về mục đích. Chớ để những viên chức phi pháp  hủy hoại tài sản và đất nước của ngài. 

20. Và chính bản thân, tấu Đại vương,
Dạy thần dân mọi nẻo hiền lương,
Kẻo e quốc độ cùng tài sản,
Phải hóa mồi quan lại ác gian.

3101. Mā ca vegena kiccāni kāresi kārayesi vā, vegasā hi kataṃ kammaṃ mando pacchānutappati. 

3101. Và ngài chớ thực hiện hoặc cho người thực hiện các phận sự một cách vội vã, bởi vì đối với công việc được làm một cách vội vã, sau này kẻ đần độn sẽ hối hận.

21. Canh phòng hành động của vua quan,
Cẩn thận, đừng nên quá vội vàng,
Vì kẻ ngu làm không nghĩ ngợi,
Về sau chắc chắn sống ăn năn.

3102. Mā te adhisare mucca subāḷhamadhikopitaṃ, kodhasā hi bahū phītā kulā akulataṃ gatā. 

3102. Chớ để tự do cho việc phạm tội của ngài, khi tâm bị nổi giận vô cùng mãnh liệt, bởi vì do giận dữ, nhiều gia đình đông đúc đã đi đến tình trạng (tan nát) không còn gia đình.

22. Ta chẳng bao giờ được hận sân,
Vì chưng sân hận vỡ tràn lan,
Liền đem nguy hại cho vua chúa,
Đánh bại người kiêu mạn nhất trần.

3103. Mā tāta issaromhīti anatthāya patārayi, itthīnaṃ purisānañca mā te āsi dukhudrayo.  

3103. Cha thân, (biết rằng): ‘Ta là vị chúa tể,’ chớ dẫn dắt dân chúng vào sự thối đọa. Chớ để hậu quả khổ đau đến với những người nữ và những người nam của ngài. 

23. Phải biết chắc rằng bậc Đại vương,
Đừng đưa dân chúng bước sai đường,
E rằng tất cả người nam nữ,
Sa đọa vào trong biển khổ buồn.

3104. Apetalomahaṃsassa rañño kāmānusārino, sabbe bhogā vinassanti rañño taṃ vuccate aghaṃ.

3104. Đối với vị vua đeo đuổi ngũ dục, không còn sợ hãi sự chê trách, tất cả của cải đều bị tiêu tan; việc ấy gọi là sự bất hạnh của vị vua.

24. Khi vua dứt bỏ mọi lo toan,
Dục lạc là nguồn sống bản thân,
Tài sản, kho tàng đều mất hết,
Chỉ còn ô nhục với hôn quân.

3105. Tattheva te vattapadā esāva anusāsanī, dakkhassudāni puññakaro asoṇḍo avināsako, sīlavassu mahārāja dussīlo vinipātiko.

3105. Ngay trong trường hợp ấy, các phần công việc của bệ hạ chính là các lời khuyên bảo ấy. Giờ đây, bệ hạ hãy là người khôn ngoan, người làm việc phước thiện, không nghiện ngập, không phung phí. Tâu đại vương, ngài hãy là người có giới hạnh, (bởi vì) kẻ có giới hạnh tồi là kẻ sẽ bị đọa vào địa ngục.

25. Đây là nhiệm vụ của quân vương
Chỉ dạy phụ vương bước đúng đường,
Thực hiện chuyên tâm toàn thiện nghiệp,
Chống điều quá độ, thói hoang toàng,
Hộ phòng giới hạnh, vì lầm lỗi
Luôn dẫn đến đau khổ đoạn trường.

3106. Apucchimhā kosiyagottaṃ kuṇḍaliniṃ tatheva ca, tvaṃ dāni vadehi jambuka balānaṃ balamuttamaṃ.

3106. “Chúng ta đã hỏi chim thuộc dòng họ Kosiya (chim Vessantara) và chim Kuṇḍalinī y như vậy. Này chim Jambuka, giờ đây con hãy nói về sức mạnh tối cao trong số các sức mạnh.”

26. Chúng ta đã hỏi đủ hoàng huynh,
Công chúa Kun-da-li đẹp xinh,
Đến lượt Jam-bu-ka hãy nói,
Cho cha biết lực tối cao minh.

3107. Balaṃ pañcavidhaṃ loke purisasmiṃ mahaggate, tattha bāhubalannāma carimaṃ vuccate balaṃ.

3107. “Có năm loại sức mạnh ở con người đã trở nên vĩ đại trên thế gian; trong số đó, cái gọi là sức mạnh của cánh tay được cho là sức mạnh sau cùng.

27. Giữa bao người vĩ đại trên trần,
Năm lực này, ta thấy rõ ràng:
Sức mạnh tứ chi là thấp nhất,

3108. Bhogabalañca dīghāvu dutiyaṃ vuccate balaṃ, amaccabalañca dīghāvu tatiyaṃ vuccate balaṃ.

3108. Thưa tiền bối, sức mạnh về của cải được cho là sức mạnh thứ nhì.[1] Thưa tiền bối, sức mạnh của người cố vấn được cho là sức mạnh thứ ba.

[1] Sự sắp xếp ở đây là theo thứ tự từ thấp lên cao, trí tuệ được xếp vào vị trí thứ năm, tức là vị trí cao nhất (ND).

Kế là quyền lực của kim ngân.

28. Thứ ba là lực của lời khuyên,

3109. Abhijaccabalañceva taṃ catutthaṃ asaṃsayaṃ, yāni etāni sabbāni adhigaṇhāti paṇḍito. 

3109. Và sức mạnh của dòng dõi, cái ấy là thứ tư, không có nghi ngờ. Bậc sáng suốt làm chủ tất cả các sức mạnh ấy.

Giai cấp hiển nhiên đệ tứ quyền,
Tất cả điều này, người có trí,
Sẽ đều công bố thật đương nhiên.

3110. Taṃ balānaṃ balaseṭṭhaṃ aggaṃ paññābalaṃ varaṃ, paññābalenupatthaddho atthaṃ vindati paṇḍito. 

3110. Trong số các sức mạnh, sức mạnh đứng đầu, cao cả, cao quý ấy là sức mạnh của trí tuệ. Được nâng đỡ bởi sức mạnh của trí tuệ, bậc sáng suốt tìm được sự tiến thân.

29. Lực tối ưu trong các lực này,
Khả năng trí tuệ chính là đây,
Nhờ vào uy lực này, người trí,
Thành tựu phần mình tốt đẹp thay.

3111. Api ce labhati mando phītaṃ dharaṇimuttamaṃ, akāmassa pasayha vā añño taṃ paṭipajjati. 

3111. Thậm chí, nếu kẻ đần độn đạt được trái đất quý báu, phồn thịnh, thì kẻ khác cũng sẽ dùng vũ lực đoạt lấy phần đất của kẻ không có mong muốn.

30. Ví thử quốc gia đại phú cường,
Rơi vào tay của một ngu nhân,
Một người khác sẽ dùng cường bạo,
Chiếm nước, gây bao nỗi oán hờn.

3112. Abhijātopi ce hoti rajjaṃ laddhāna khattiyo, duppañño hi kāsipati sabbenapi na jīvati. 

3112. Dầu cho vị Sát-đế-lỵ được sanh ra cao quý, sau khi đạt được vương quốc, chính vì có trí tuệ tồi, vị chúa của xứ Kāsi không thể sinh tồn với toàn thể vương quốc ấy. 

31. Dù quân vương quý tộc cao sang,
Phận sự chính là ngự trị dân,
Vua ấy quả là rất khó sống,
Nếu vua chứng tỏ trí ngu đần.

3113. Paññā sutaṃ vinicchinī paññā kittisilokavaḍḍhanī, paññāsahito naro idha api dukkhepi sukhāni vindati. 

3113. Trí tuệ có sự suy xét điều đã được nghe. Trí tuệ có sự làm tăng trưởng danh thơm tiếng tốt. Ở đây, người được đầy đủ trí tuệ tìm thấy các sự an lạc, thậm chí ngay cả trong khổ đau.

32. Trí tuệ xét xem các việc làm,
Làm cho danh vọng mãi tăng dần,
Người nào trí tuệ đầy thông thái,
Vẫn thấy vui dù gặp khổ buồn.

3114. Paññañca kho asussūsaṃ na koci adhigacchati, bahussutaṃ anāgamma dhammaṭṭhaṃ avinibbhujaṃ.

3114. Thật vậy, người không mong muốn lắng nghe, không đến gần vị có kiến thức rộng (đa văn), không chia chẽ ý nghĩa của các pháp, không người nào đạt đến trí tuệ.

33. Không ai sống phóng dật buông lung,
Lại có thể nào đạt trí thông,
Nhưng phải theo lời khuyên bậc trí,
Nếu không, sẽ mãi mãi ngu đần.

3115. Yo ca dhammavibhāgaññū kāluṭṭhāyī atandito, anuṭṭhahati kālena tamphalaṃ tassa ijjhati. 

3115. Và người nào biết phân loại các pháp, có sự thức dậy sớm, không biếng nhác, tiến hành công việc theo thời biểu, kết quả của công việc được thành tựu đến vị ấy.

34. Ai dậy sớm, luôn giữ đúng thời,
Chuyên tâm không mỏi mệt, vui tươi,
Làm bao phận sự đang mời gọi,
Chắc chắn thành công ở giữa đời.

3116. Anāyatana sīlassa anāyatanasevino, na nibbindiyakārissa sammadattho vipaccati. 

3116. Đối với kẻ có bản tánh không nỗ lực, thân cận với kẻ không nỗ lực, có hành động một cách chán nản, mục đích không được kết trái một cách đúng đắn (cho kẻ ấy).

35. Ai hướng tâm vào việc tổn thương,
Hoặc hành động với trí buông lung,
Việc gì kẻ ấy hòng theo đuổi,
Cũng chẳng thể nào đạt ước mong.

3117. Ajjhattañca payuttassa tathāyatanasevino, anibbindiyakārissa sammadattho vipaccati. 

3117. Và đối với người đã gắn bó với (sự tu tập của) bản thân, thân cận với người nỗ lực như thế ấy, có hành động không chán nản, mục đích được kết trái một cách đúng đắn (cho người ấy).

36. Song ai không mỏi mệt, chuyên cần,
Theo đuổi đường đời thật chánh chân,
Chắc chắn sẽ đạt thành trọn vẹn,
Bất kỳ công việc họ đang làm.

3118. Yogappayogasaṅkhātaṃ sambhatassānurakkhanaṃ, tāni tvaṃ tāta sevassu mā akammāya randhayi, akammunā ca dummedho naḷāgāraṃva sīdati. 

3118. Cha thân, cha hãy thực hành hai việc ấy: việc gọi là gắn bó và thực hành, việc bảo vệ tài sản đã được tích lũy. Chớ để tiêu hoại do không hoạt động, bởi vì kẻ ngu do không hoạt động tựa như căn nhà bằng sậy bị sụp đổ.

37-38. Hộ phòng bảo vệ các kho tàng,
Là tạo nguồn tài lợi lớn dần,
Đây chính những điều con ước muốn,
Phụ vương hãy tạc dạ ghi lòng;
Vì do ác nghiệp, người ngu trí,
Cũng giống như nhà lau sậy rỗng không,
Sụp đổ tan tành trong chốc lát,
Đằng sau để lại cảnh tiêu vong.

3119. Dhammaṃ cara mahārāja mātāpitusu khattiya, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi. 

3119. Tâu đại vương, tâu vị Sát- đế- lỵ, hãy thực hành pháp (phụng dưỡng) đối với cha mẹ. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời. 

39. Với song thân, hỡi đấng Anh quân,
Phận sự thi hành thật chánh chân,
Như vậy, sống theo đời chánh trực,
Đại vương sẽ đến cõi thiên đường.

3120. Dhammaṃ cara mahārāja puttadāresu khattiya, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi. 

3120. Tâu đại vương, tâu vị Sát- đế- lỵ, hãy thực hành pháp (cấp dưỡng) đối với vợ con. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

3121. Dhammaṃ cara mahārāja mittāmaccesu khattiya, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi. 

3121. Tâu đại vương, tâu vị Sát- đế- lỵ, hãy thực hành pháp (thu phục) đối với bạn bè và đồng nghiệp. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

3122. Dhammaṃ cara mahārāja vāhanesu balesu ca, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi.

3122. Tâu đại vương, tâu vị Sát- đế- lỵ, hãy thực hành pháp (chu cấp) đối với các đội xa binh và bộ binh. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

3123. Dhammaṃ cara mahārāja gāmesu nigamesu ca, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi.

3123. Tâu đại vương, tâu vị Sát- đế- lỵ, hãy thực hành pháp (không sách nhiễu) ở các thôn làng và các phố thị. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

3124. Dhammaṃ cara mahārāja raṭṭhesu janapadesu ca, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi.

3124. Tâu đại vương, tâu vị Sát- đế- lỵ, hãy thực hành pháp (không sách nhiễu) trong các đất nước và các xứ sở. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

3125. Dhammaṃ cara mahārāja samaṇa brāhmaṇesu ca, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi.  

3125. Tâu đại vương, tâu vị Sát- đế- lỵ, hãy thực hành pháp (bố thí) đến các Sa-môn và Bà-la-môn. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

3126. Dhammaṃ cara mahārāja migapakkhīsu khattiya, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi. 

3126. Tâu đại vương, tâu vị Sát- đế- lỵ, hãy thực hành pháp (không hãm hại) đối với các loài thú và loài chim. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

3127. Dhammaṃ cara mahārāja dhammo ciṇṇo sukhāvaho, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi. 

3127. Tâu đại vương, hãy thực hành (thiện) pháp. (Thiện) pháp được thực hành là nguồn đem lại niềm an lạc. Tâu bệ hạ, sau khi thực hành pháp ở nơi này, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

3128. Dhammaṃ cara mahārāja saindā devā sabrahmakā, suciṇṇena divaṃ pattā mā dhammaṃ rāja pamādo.

3128. Tâu đại vương, hãy thực hành (thiện) pháp. Thiên Chủ Inda, chư Thiên, cùng với Phạm Thiên đã đạt được cung Trời nhờ đã thực hành tốt đẹp. Tâu bệ hạ, chớ xao lãng (thiện) pháp.

3129. Tattheva te vattapadā esāva anusāsanī, sappaññasevikalyāṇī samattaṃ sāmataṃ vidū ”ti.

3129. Ngay trong trường hợp ấy, các phần công việc của bệ hạ chính là các lời khuyên bảo ấy. Bệ hạ hãy là người tốt lành, có sự thân cận các bậc trí tuệ, là người hiểu biết đầy đủ về bản thân.”

40. Đây là phận sự của quân vương,
Dạy bảo phụ vương bước đúng đường,
Theo trí tuệ và luôn hạnh phúc,
Hiểu điều chân lý thật hoàn toàn.

Câu chuyện 521

Tesakuṇajātakaṃ.

***

Bổn sanh Ba Con Chim. [521]



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada