Sống Trong Từng Sát Na 

Phần 6: QUÁN PHÁP (tiếp theo)

Ngũ uẩn

Sáu giác quan và sáu đối tượng của giác quan (Sáu nội ngoại xứ)

Thực tập quán chiếu về sự bám víu vào ngũ uẩn (sắc thọ tưởng hành thức) và sự ràng buộc của sáu nội ngoại xứ (mắt tai mũi lưỡi thân ý, sắc thanh hương vị xúc pháp) là những bước thực tập chính yếu trong quá trình quán niệm về các đối tượng tâm thức.

Lãnh vực đầu tiên của ngũ uẩn là sắc. Tự mình quán niệm như sau: “Đây là hình sắc. Đây là sự phát sinh của hình sắc. Đây là sự hoại diệt của hình sắc”.

Sắc ở đây có nghĩa là thân xác, do tứ đại đất nước lửa gió hợp thành, trong đó có gan, tim, máu, mủ, hơi thở, nhiệt… Khi xác thân bị hoại diệt, các cấu thể từ thân xác sẽ trở về với vũ trụ. Không có sự thêm. Không có sự bớt. Không có sự được. Không có sự mất. Hãy quán chiếu: “Năm uẩn như mây bay qua rồi bay lại” (Ngũ ấm phù vân không khứ lai – Chứng Đạo Ca). Hãy chú tâm quán sát sự sinh khởi và hoại diệt của hình sắc, ở bên trong thân thể, ở bên ngoài thân thể, ở chính ta, ở những người quanh ta. Tất cả mọi vật thể đều không có tự tánh riêng biệt. Tất cả đều không. Như Thiền sư Shunryu Suzuki đã nhận định: “Cái mà chúng ta gọi là tôi chỉ là cánh cửa đong đưa đang di động khi chúng ta hít vào và khi chúng ta thở ra” (Zen Mind).

Nếu như một mai thân xác ta bị tan hoại, tim gan gởi về cho đất, hơi thở gởi về cho gió, sức nóng trong cơ thể gởi về cho lửa, mủ máu gởi về cho nước… rồi thì thân xác đây không còn gọi là thân xác nữa. Đó là sự tan rã của hình sắc. Tất cả và tất cả đều không có tự tánh riêng biệt. Mọi sự việc đều vô thường biến đổi. Đó là bản chất thật của cuộc đời. Sắc tức là không, không tức là sắc. Không có gì thêm, không có gì bớt. Không có gì tăng, không có gì giảm. Tất cả chỉ là sự biến dịch trở về. Với sự hành trì pháp quán thân tinh chuyên và đúng phương pháp, ta có thể đạt được sự hiểu biết lớn về bản chất vô thường, khổ và vô ngã của sắc uẩn.

Lãnh vực thứ hai của ngũ uẩn là thọ. Tự mình quán niệm như sau: “Đây là cảm thọ. Đây là sự phát sinh của cảm thọ. Đây là sự hoại diệt của cảm thọ”.

Như đã trình bày ở phần quán thọ, cảm thọ là những xúc cảm thọ nhận, bao gồm các cảm giác dễ chịu, các cảm giác khó chịu, các cảm giác không dễ chịu cũng không khó chịu. Cảm thọ phát khởi do sự tiếp xúc của sáu căn với sáu trần. Sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu trần là hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm và tư tưởng. Mắt thấy sắc màu nên sinh mến chuộng, tai nghe tiếng chửi nên sinh buồn khổ, mũi ngửi mùi hôi nên sinh khó chịu, lưỡi nếm vị ngọt nên sinh ưa thích, thân xúc chạm vật thể nên sinh mến yêu, ý khởi niệm phiền lo nên sinh sợ hãi. Với sự hành trì pháp quán thọ tinh chuyên và đúng phương pháp, ta có thể đạt được sự hiểu biết lớn về bản chất vô thường, khổ và vô ngã của thọ uẩn.

Trên lãnh vực quán thọ, ta chỉ cần tỉnh biết sáng suốt và ghi nhận rõ ràng về từng cảm giác đang thọ nhận, ngay lúc nó phát sinh, tăng trưởng, suy yếu, cho đến khi nó hoàn toàn tan biến đi. Như khi nhận biết mình đang có một cảm giác sợ hãi, thì ngay đó sự sợ hãi đã bị giảm suy phần nào bởi ảnh hưởng của sự định tĩnh có được từ hơi thở ý thức. Ta khách quan ghi nhận và quán sát về sự sinh khởi và hoại diệt của nó, để trực nghiệm bản chất vô thường, khổ và vô ngã của cảm thọ, để không còn bám víu vào những biến dịch phù du của thọ uẩn.

Lãnh vực thứ ba của ngũ uẩn là tưởng. Tự mình quán niệm như sau: “Đây là tri giác. Đây là sự phát sinh của tri giác. Đây là sự hoại diệt của tri giác”.

Tưởng có nghĩa là tri giác, tức là sự nhận biết của các giác quan, phát sinh từ sự tiếp xúc của sáu căn với sáu trần.

  • Mắt thấy hình sắc
  • Tai nghe âm thanh
  • Mũi ngửi mùi hương
  • Lưỡi nếm các vị
  • Thân xúc chạm vật thể
  • Ý biết các tư tưởng

Do bởi có mắt và có hình sắc, mắt tiếp xúc với hình sắc mà khởi sinh sự nhận biết của cái thấy. Do bởi có tai và có âm thanh, tai tiếp xúc với âm thanh mà khởi sinh sự nhận biết của cái nghe. Do bởi có mũi và có mùi hương, mũi tiếp xúc với mùi hương mà khởi sinh sự nhận biết của cái ngửi. Do bởi có lưỡi và có vị nếm, lưỡi tiếp xúc với vị nếm mà khởi sinh sự nhận biết của cái nếm. Do bởi có thân và có vật thể, thân tiếp xúc với vật thể mà khởi sinh sự nhận biết của sự xúc chạm. Do bởi có tâm ý và có tư tưởng, tâm ý tiếp xúc với tư tưởng mà khởi sinh sự nhận biết của các nghĩ tưởng.

Ta chú tâm ghi nhận và quán sát đây là tri giác, đây là sự phát sinh của tri giác, do bởi có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tiếp xúc với hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm, tư tưởng mà có sự nhận biết của tri giác. Như khi ý thức về sự nhận biết của tri giác, thì ngay đó sự ràng buộc của các ý niệm trong tâm thức cũng đã bị giảm suy ít nhiều bởi ảnh hưởng của sự định tĩnh có được từ hơi thở ý thức. Ta khách quan ghi nhận và quán sát sự sinh khởi và hoại diệt của nó, để trực nghiệm bản chất vô thường, khổ và vô ngã của trí tưởng, để không còn bám víu vào những phù du biến động của tưởng uẩn.

Lãnh vực thứ tư của ngũ uẩn là hành. Tự mình quán niệm như sau: “Đây là sự vận hành tâm tư. Đây là sự phát sinh của sự vận hành tâm tư. Đây là sự hoại diệt của sự vận hành tâm tư”.

Hành có nghĩa là tâm tư, tức là sự vận hành lưu chuyển của các luồn tư tưởng phát khởi và diễn biến liên tục trong tâm thức. Dòng suy tưởng không bao giờ ngừng nghỉ. Hết ý niệm này thì đến suy tưởng khác. Vừa nghĩ đến ý tưởng này thì ý tưởng kia đã tan biến. Vừa nghĩ đến ý tưởng nọ thì ý tưởng kia đã lắng chìm. Đây là sự phát sinh của tâm tư. Đây là sự hoại diệt của tâm tư. Những niệm tưởng nghĩ suy sinh sinh diệt diệt vô cùng tận.

Hành trì pháp quán niệm tâm nghiêm mật và đúng phương thức, ta có thể đạt được sự hiểu biết lớn về bản chất vô thường, khổ và vô ngã của tưởng uẩn và hành uẩn.

Lãnh vực thứ năm của ngũ uẩn là thức. Tự mình quán niệm như sau: “Đây là ý thức phân biệt. Đây là sự phát sinh của ý thức phân biệt. Đây là sự hoại diệt của ý thức phân biệt”.

Thức có nghĩa là ý thức hiểu biết phân biệt về sự việc. Thức phát sinh do sự tiếp xúc của sáu căn với sáu trần. Tất cả bao gồm có sáu thức:

  • Nhãn thức (sự phân biệt của mắt)
  • Nhĩ thức (sự phân biệt của tai)
  • Tỷ thức (sự phân biệt của mũi)
  • Thiệt thức (sự phân biệt của lưỡi)
  • Thân thức (sự phân biệt của thân)
  • Ý thức (sự phân biệt của ý)

Khi mắt nhìn thấy hình sắc, tâm có sự nhận biết về hình sắc và có sự phân biệt đẹp xấu trắng đen. Khi tai nghe thấy tiếng động, tâm có sự nhận biết về âm thanh và phân biệt loại âm thanh gì, lớn nhỏ, ồn náo hay dễ chịu. Khi mũi ngửi thấy mùi hương, tâm có sự nhận biết về mùi hương và có sự phân biệt thơm hôi. Khi lưỡi nếm được mùi vị, tâm có sự nhận biết về mùi vị và phân biệt mặn ngọt hay đắng nồng ra sao. Khi thân có sự xúc chạm vào vật thể, tâm có sự nhận biết về sự xúc chạm và có sự phân biệt vật đó là vật gì, lớn hay nhỏ, mềm hay cứng. Khi tâm trí sinh khởi một ý tưởng, tâm có sự nhận biết về ý niệm và phân biệt ý niệm đó tốt hay xấu, thiện hay ác.

Ta khách quan ghi nhận và chú tâm quán sát: “Đây là năm uẩn”, “Đây là sự phát sinh của năm uẩn”, “Đây là sự hoại diệt của năm uẩn”, do bởi có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý (sáu căn) tiếp xúc với hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm, tư tưởng (sáu trần), mà có sự xúc cảm của thọ, có sự nhận biết của tưởng, có sự lưu chuyển tâm tư của hành, có sự phân biệt của thức.

Từ sự quán sát khách quan về ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), ta nhận biết về sự ô nhiễm ràng buộc của sáu căn và sáu trần, để soi thấu bản chất vô thường của sáu nội ngoại xứ, để không còn bám víu chấp chặt vào ngũ uẩn của tự thân.

SÁU NỘI NGOẠI XỨ

Tiếp theo là phương pháp quán niệm về sự ràng buộc của sáu giác quan và sáu đối tượng của giác quan. Sáu giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu đối tượng của giác quan là hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm và tư tưởng.

Những ràng buộc của sáu nội ngoại xứ:

  • Sự ràng buộc của mắt và hình sắc
  • Sự ràng buộc của tai và âm thanh
  • Sự ràng buộc của mũi và mùi hương
  • Sự ràng buộc của lưỡi và vị nếm
  • Sự ràng buộc của thân và xúc chạm
  • Sự ràng buộc của ý và tư tưởng

Khi mắt nhìn thấy hình sắc là do bởi có mắt và có hình sắc, có sự tiếp xúc của mắt với hình sắc, gây tạo cho tâm thức sự thấy biết và sự nhận thức phân biệt về hình sắc. Đấy là sự ràng buộc tạo nên do mắt tiếp xúc với hình sắc. Khi ý thức về sự ràng buộc, hãy ghi nhận sự thấy biết phân biệt của tâm thức. Với hơi thở tỉnh giác, các ý niệm sinh khởi bởi sự ràng buộc của mắt và hình sắc sẽ dần bị giảm suy.

Thở vào, ta biết ta đang thở vào. Thở ra, ta biết ta đang thở

  1. Ta ý thức sự sinh khởi, tăng trưởng, giảm suy và hoại diệt của nó, để trực nghiệm bản chất vô thường ở những ràng buộc của mắt và hình sắc.

Khi tai nghe thấy một âm thanh là do bởi có tai và có âm thanh, có sự tiếp xúc của tai với âm thanh, gây tạo cho tâm thức sự nghe biết và sự nhận thức phân biệt về âm thanh.

Đấy là sự ràng buộc tạo nên do tai tiếp xúc với âm thanh. Khi ý thức về sự ràng buộc, hãy ghi nhận sự thấy biết phân biệt của tâm thức. Với hơi thở tỉnh giác, các ý niệm sinh khởi bởi sự ràng buộc của tai và âm thanh sẽ dần bị giảm suy. Thở vào, ta biết ta đang thở vào. Thở ra, ta biết ta đang thở ra. Ta ý thức sự sinh khởi, tăng trưởng, giảm suy và hoại diệt của nó, để trực nghiệm bản chất vô thường ở những ràng buộc của tai và âm thanh.

Khi mũi ngửi thấy một mùi hương là do bởi có mũi và có mùi hương, có sự tiếp xúc của mũi với mùi hương, gây tạo cho tâm thức sự ngửi biết và sự nhận thức phân biệt về mùi hương. Đấy là sự ràng buộc tạo nên do mũi tiếp xúc với mùi hương. Khi ý thức về sự ràng buộc, hãy ghi nhận sự thấy biết phân biệt của tâm thức. Với hơi thở tỉnh giác, các ý niệm sinh khởi bởi sự ràng buộc của mũi và mùi hương sẽ dần bị giảm suy. Thở vào, ta biết ta đang thở vào. Thở ra, ta biết ta đang thở ra. Ta ý thức sự sinh khởi, tăng trưởng, giảm suy và hoại diệt của nó, để trực nghiệm bản chất vô thường ở những ràng buộc của mũi và mùi hương.

Khi lưỡi nếm biết một vị nếm là do bởi có lưỡi và có vị nếm, có sự tiếp xúc của lưỡi với vị nếm, gây tạo cho tâm thức sự nếm biết và sự nhận thức phân biệt về vị nếm. Đấy là sự ràng buộc tạo nên do lưỡi tiếp xúc với vị nếm. Khi ý thức về sự ràng buộc, hãy ghi nhận sự thấy biết phân biệt của tâm thức. Với hơi thở tỉnh giác, các ý niệm sinh khởi bởi sự ràng buộc của lưỡi và vị nếm sẽ dần bị giảm suy.

Thở vào, ta biết ta đang thở vào. Thở ra, ta biết ta đang thở ra. Ta ý thức sự sinh khởi, tăng trưởng, giảm suy và hoại diệt của nó, để trực nghiệm bản chất vô thường ở những ràng buộc của lưỡi và vị nếm.

Khi thân chạm biết vật thể là do bởi có thân và có vật thể, có sự tiếp xúc của thân với vật thể, gây tạo cho tâm thức sự chạm biết và sự nhận thức phân biệt về vật thể. Đấy là sự ràng buộc tạo nên do thân tiếp xúc với vật thể. Khi ý thức về sự ràng buộc, hãy ghi nhận sự thấy biết phân biệt của tâm thức. Với hơi thở tỉnh giác, các ý niệm sinh khởi bởi sự ràng buộc của thân và vật thể sẽ dần bị giảm suy. Thở vào, ta biết ta đang thở vào. Thở ra, ta biết ta đang thở ra. Ta ý thức sự sinh khởi, tăng trưởng, giảm suy và hoại diệt của nó, để trực nghiệm bản chất vô thường ở những ràng buộc của thân và vật thể.

Khi tâm ý khởi biết một niệm tưởng là do bởi có tâm ý và có tư tưởng, có sự tiếp xúc của tâm ý với tư tưởng, gây tạo cho tâm thức sự khởi biết về ý nghĩ và sự nhận thức phân biệt về các ý niệm. Đấy là sự ràng buộc tạo nên do tâm ý tiếp xúc với tư tưởng. Khi ý thức về sự ràng buộc, hãy ghi nhận sự thấy biết phân biệt của tâm thức. Với hơi thở tỉnh giác, các ý niệm sinh khởi bởi sự ràng buộc của tâm ý và tư tưởng sẽ dần bị giảm suy. Thở vào, ta biết ta đang thở vào. Thở ra, ta biết ta đang thở ra. Ta ý thức sự sinh khởi, tăng trưởng, giảm suy và hoại diệt của nó, để trực nghiệm bản chất vô thường ở những ràng buộc của tâm ý và tư tưởng.

Thí dụ về sự ràng buộc của mắt và hình sắc: Khi mắt nhìn thấy một cô gái trẻ đẹp, với thân hình duyên dáng và nụ cười hồn nhiên, gây tạo cho ta sự mê thích của dục tính. Ta khách quan ghi nhận: “Đang nhìn thấy một hình sắc”, “Đang có sự mê thích về hình sắc”, rồi nhẹ nhàng trở về với hơi thở. Thở vào, ta nhận biết sự mê thích đang sinh khởi. Thở ra, ta nhận biết sự mê thích đang suy giảm.

Thí dụ về sự ràng buộc của tai và âm thanh: Khi tai nghe thấy một âm thanh chửi bới, gây tạo cho ta cảm thức khó chịu. Ta khách quan ghi nhận: “Đang nghe thấy một âm thanh”, “Đang có sự khó chịu về âm thanh”, rồi nhẹ nhàng trở về với hơi thở. Thở vào, ta nhận biết cảm thức khó chịu đang sinh khởi. Thở ra, ta nhận biết cảm thức khó chịu đang suy giảm.

Thí dụ về sự ràng buộc của mũi và mùi hương: Khi mũi ngửi thấy một mùi hôi, gây tạo cho ta sự bực bội. Ta khách quan ghi nhận: “Đang ngửi thấy một mùi hôi”, “Đang có sự bực bội về mùi hôi”, rồi nhẹ nhàng trở về với hơi thở.

Thở vào, ta nhận biết sự bực bội đang sinh khởi. Thở ra, ta nhận biết sự bực bội đang suy giảm.

Thí dụ về sự ràng buộc của lưỡi và vị nếm: Khi lưỡi nếm biết một mùi vị thơm ngon, gây tạo cho ta sự ưa thích. Ta khách quan ghi nhận: “Đang nếm biết một mùi vị”, “Đang có sự ưa thích về mùi vị”, rồi nhẹ nhàng trở về với hơi thở. Thở vào, ta nhận biết sự ưa thích đang sinh khởi. Thở ra, ta nhận biết sự ưa thích đang suy giảm.

Thí dụ về sự ràng buộc của thân và sự xúc chạm: Khi thân chạm đến một làn da mịn mát, gây tạo cho ta sự mê thích. Ta khách quan ghi nhận: “Đang chạm biết một vật thể”, “Đang có sự mê thích về xúc chạm”, rồi nhẹ nhàng trở về với hơi thở. Thở vào, ta nhận biết sự mê thích đang sinh khởi. Thở ra, ta nhận biết sự mê thích đang suy giảm.

Thí dụ về sự ràng buộc của tâm trí và tư tưởng: Khi nhận biết có một ý tưởng xấu ác đang sinh khởi trong tâm thức, gây tạo cho ta sự căm ghét bất mãn. Ta khách quan ghi nhận: “Đang có một ý tưởng xấu ác”, “Đang có sự bất mãn về ý tưởng xấu ác”, rồi nhẹ nhàng trở về với hơi thở. Thở vào, ta nhận biết sự bất mãn đang sinh khởi. Thở ra, ta nhận biết sự bất mãn đang suy giảm.

Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật đã thuyết giảng về yếu nghĩa của việc sanh tâm không trụ nơi sáu trần:

“Bất ưng trụ sắc sanh tâm,

Bất ưng trụ thanh hương vị xúc pháp sanh tâm,

Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.”

Chẳng nên trụ vào hình sắc mà sanh tâm, chẳng nên trụ vào âm thanh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm, tư tưởng mà sanh tâm, nên trụ vào chỗ không chỗ trụ để mà sanh tâm.

Theo tinh thần Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm, “chẳng nên trụ” (bất ưng trụ) mà Đức Phật đề cập trong Kinh Kim Cang có nghĩa là tâm khởi niệm không chấp chặt vào sáu trần, không vướng kẹt nơi cái thấy ở màu sắc, nơi cái nghe ở âm thanh, nơi cái ngửi ở mùi hương, nơi cái nếm ở mùi vị, nơi cái cảm biết từ sự xúc chạm của xác thân, nơi ý thức phân biệt của nghĩ tưởng. Trụ tâm như thế gọi là trụ tâm vào chỗ không chỗ trụ (ưng vô sở trụ), có nghĩa là không chấp chặt vào trần cảnh mà sanh tâm thanh tịnh.

Con đường thánh đạo mà người thiền giả nương dựa vào, để an trú tâm trong ý thức chánh niệm, để tu tập sống tỉnh thức, đó là con đường của tứ niệm xứ, tức là bốn lãnh vực quán niệm.

Khi quán niệm về sự ràng buộc của các giác quan và các đối tượng của giác quan, hãy khách quan ghi nhận sự gây tạo ảnh hưởng của nó đến thân tâm. Ta ý thức sự ràng buộc ngay khi nó bắt đầu phát sinh, tăng trưởng, suy yếu, cho đến khi nó hoàn toàn hoại diệt. Ta an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh khởi cũng như quá trình hoại diệt của nó, để thấy rõ bản chất vô thường của sự ràng buộc nơi các giác quan. Ta an trú trong sự quán niệm: “Có sáu giác quan đây”, “Có sáu đối tượng của giác quan đây”, và tất cả chỉ là sáu giác quan và sáu đối tượng của giác quan. Với  sự quán niệm như vậy đủ để giúp ta ý thức sự có mặt của các đối tượng tâm thức, để quán chiếu về sự vô thường của các đối tượng tâm thức.

Trả lời