5- Điều-Giới Tránh Xa Uống Rượu, Bia Và Các Chất Say

Surā meraya majjappamādaṭṭhānā veramaṇi- sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Nghĩa từng chữ:

Surā meraya majjap pamādaṭṭhānā:

Surā + meraya + majja + pamāda + ṭhānā.

Surā: Rượu, bia,… là nhân sinh bạo dạn, liều lĩnh,…

Meraya: Chất say gồm có chất say loại nước, thuốc phiện, ma tuý, cần sa, thuốc lá, … làm cho say ngất ngưởng, là chất gây nghiện, không biết tự chủ.

Majja: Say sưa, say mê, ngất ngưởng.

Pamāda: Sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp.

Ṭhānā: Nhân sinh.

Veramaṇisikkhāpadaṃ: Veramaṇī + sikkhāpadaṃ

Veramaṇī: Tác-ý tránh xa.

Sikkhāpadaṃ: Điều-giới, giới.

Samādiyāmi: Con xin thọ trì.

Rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp nói chung; cũng là nhân sinh sự bạo dạn, liều lĩnh dám tạo mọi ác-nghiệp bằng thân, khẩu, ý.

Nghĩa toàn câu:

Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp.

Chi-Pháp Của Điều-Giới Uống Rượu Và Các Chất Say

Người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say hợp đủ 4 chi-pháp:

 1- Rượu, bia hoặc các chất say (surā merayabhāvo).

2- Tâm muốn uống rượu, bia và các chất say

(pivitukāmatā).

3- Cố gắng uống rượu, bia hoặc các chất say (pivanaṃ).

4- Uống rượu, bia và các chất say qua khỏi cổ (maddanaṃ).

Nếu người nào có đầy đủ 4 chi-pháp này thì người  ấy phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say. Nếu không đủ 4 chi-pháp thì không phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say.

Giảng Giải Về Sự Uống Rượu, Bia Và Các Chất Say

* Surā: Rượu, bia là một chất nước được làm bằng cơm gạo, trái cây, v.v…

Mỗi khi uống rượu, bia vào say sưa, mất tự chủ, làm kích thích tâm tham, tâm sân, tâm si,… trở nên người hung hăng, bạo dạn, liều lĩnh, … không biết hổ-thẹn tội- lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, nên dám tạo mọi ác-nghiệp bằng thân, khẩu, ý, mà lúc bình thường không dám tạo ác-nghiệp như vậy.

Rượu (surā) có 5 loại:

1- Rượu, bia được làm từ gạo (gạo tẻ, gạo nếp).

2- Rượu, bia được làm từ cơm như cơm rượu.

3- Rượu, bia được làm từ các trái cây (trái nho, táo…).

4- Rượu, bia được làm từ bánh.

5- Rượu, bia được làm từ các chất có men, …

* Meraya: Chất say loại nước do ngâm các thứ trái cây, hoa, lâu ngày trở thành chất say, thuốc phiện, ma tuý, cần sa, thuốc lá, … gây nghiện.

 Chất say loại nước có 5 loại:

1- Chất say do ngâm các loại hoa,… lâu ngày.

2- Chất say do ngâm các loại trái cây, lâu ngày.

3- Chất say do ngâm các trái nho lâu ngày.

4- Chất say do ngâm nước mía lâu ngày.

5- Chất say do ngâm các trái cây làm thuốc lâu ngày.

Mỗi khi người uống chất say vào, cảm thấy say sưa ngất ngưởng không còn biết mình, không còn tự chủ, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, nên tạo mọi ác-nghiệp bằng thân, khẩu, ý.

Thuốc phiện, ma tuý, cần sa, thuốc lá, … là loại chất say rất nguy hiểm khi người nào dùng đến các loại ấy  lâu ngày trở thành bệnh nghiện, rất khó từ bỏ.

* Majja: Làm cho say, có 2 loại:

1- Rượu, bia và các chất say làm cho người uống say sưa, không còn biết tự chủ, trở nên người hung hăng, bạo dạn, liều lĩnh không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê- sợ tội-lỗi, dám làm mọi ác-nghiệp bằng thân, khẩu, ý,  mà lúc bình thường không dám tạo ác-nghiệp như vậy.

2- Người dùng thuốc-phiện, ma-túy, cần-sa, thuốc-lá, v.v… thành thói quen, trở nên nghiện rồi khó từ bỏ. Khi đến cơn nghiện làm cho người ấy không biết tự chủ, dám làm mọi tội-lỗi mà không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi.

* Pamāda: Sự dể duôi (thất niệm) quên mình trong mọi thiện-pháp, đắm trong mọi ác-pháp.

Ṭhāna: Nhân sinh, nguyên nhân.

Nghĩa gom surā-meraya-majjappamādaṭ-ṭhānā: rượu, bia và các chất say… là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp.

 Nghĩa toàn câu:

Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa uống rượu, bia và các chất say là nhân phát sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp.

4 Hạng Người Dùng Rượu

1- Dùng rượu trộn trong thuốc, trong vật thực.

2- Dùng rượu làm thuốc trị bệnh.

3- Uống rượu, bia để thưởng thức hương vị của rượu.

4- Uống rượu, bia làm cho tâm trở nên bạo dạn, liều

lĩnh, để tạo mọi ác-nghiệp bằng thân, khẩu, ý.

Trong 4 trường hợp người dùng rượu này, hạng người nào phạm điều-giới uống rượu và các chất say?

Tạo ác-nghiệp nhẹ, ác-nghiệp nặng như thế nào?

1- Trường hợp thứ nhất: Khi rượu được trộn trong thuốc để trị bệnh, hoặc trộn trong vật thực,… chất rượu hoàn toàn bị biến chất không còn mùi rượu, không có khả năng làm say nữa, nên người dùng thuốc ấy hoặc dùng vật thực ấy không phạm điều-giới uống rượu và các chất say, không có tội.

2- Trường hợp thứ hai: Dùng thuốc nước có pha với rượu để trị bệnh (còn có mùi rượu, có khả năng làm choáng váng chút đỉnh).

* Nếu người dùng biết rõ thuốc nước có rượu, nhưng với mục đích trị bệnh, không phải muốn hưởng hương vị rượu, thì phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, tạo ác-nghiệp rất nhẹ.

* Nếu người dùng thuốc nước không biết rõ có rượu, chỉ dùng với mục đích trị bệnh mà thôi, thì không phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, không tạo ác- nghiệp.

 3- Trường hợp thứ ba: Người uống rượu để thưởng thức hương vị của rượu, bia rồi say túy lúy, hoàn toàn không còn biết gì nữa; người ấy đã phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, vì say mê trong hương vị của rượu, nên tạo ác-nghiệp nặng.

Đức-Phật dạy:

Này chư tỳ-khưu! Người thường uống rượu và các chất say, uống nhiều rượu và các chất say, uống nhiều lần, ác-nghiệp này có cơ hội cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh.

Người nào uống rượu và các chất say, tạo ác-nghiệp nhẹ, sau khi người ấy chết, ác-nghiệp uống rượu và các chất say không có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau, nếu có đại-thiện-nghiệp khác có cơ hội cho quả được tái- sinh kiếp sau làm người, thì người ấy sẽ là người điên cuồng mất trí (ummattakasaṃvattiko).(1)

4- Trường hợp thứ tư: Người uống rượu, bia làm cho tâm trở nên bạo dạn, liều lĩnh dám tạo mọi ác-nghiệp bằng thân, khẩu, ý.

Như một người nào bình thường hay có tính nhút nhát, biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, không dám làm mọi ác-nghiệp, nhưng một khi người ấy uống rượu, bia và các chất say vào làm kích thích, không còn biết tự chủ, trở thành người hung hăng, bạo dạn, liều lĩnh dám làm mọi ác-nghiệp như sát-sinh, trộm-cắp, tà-dâm, nói năng chửi rủa gây gỗ lung tung, v.v…

Người nào đã phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, rồi tạo ác-nghiệp nào, sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau, thì sinh trong cõi ác-giới: địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc- sinh, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy, cho đến khi mãn quả khổ của ác-nghiệp ấy, mới mong thoát ra khỏi cõi ác-giới ấy.

Tính Chất Của Điều-Giới Uống Rượu, Bia Và Các Chất Say

Phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say đối với người tại gia cư-sĩ và đối với bậc xuất-gia tỳ-khưu, sa-di có tính chất nhẹ – nặng khác nhau.

* Đối với hàng tại gia cư-sĩ là cận-sự-nam, cận-sự-nữ phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say là 1 điều- giới cấm trong ngũ-giới, trong bát-giới Uposathasīla, trong cửu-giới Uposathasīla, …

Nếu người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nào đã phạm điều- giới uống rượu, bia và các chất say, thì người cận-sự- nam, cận-sự-nữ ấy xem như bị phạm ngũ-giới, phạm bát-giới, phạm cửu-giới.

Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy cần phải thọ trì ngũ- giới, hoặc bát-giới, hoặc cửu-giới để cho mình là người có giới trở lại.

* Đối với vị sa-di phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say là 1 điều-giới cấm trong sa-di thập-giới.

Nếu vị sa-di nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say thì vị sa-di ấy bị mất phẩm-hạnh sa-di, không còn là sa-di. Dù hình thức bên ngoài còn mặc y, nhưng nội tâm bên trong không còn phẩm-hạnh sa-di nữa.

Biết mình bị phạm giới, mất phẩm-hạnh sa-di, vị sa-di ấy cần phải đến hầu vị Thầy tế-độ, hoặc một Ngài Trưởng- lão hiểu rõ giới luật, xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì sa-di thập-giới trở lại.

Sau khi thọ phép quy-y Tam-bảo đúng theo luật xong, vị sa-di ấy được phục hồi lại phẩm-hạnh sa-di như trước.

* Đối với vị tỳ-khưu phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say là 1 điều-giới cấm trong 227 điều-giới bổn của tỳ-khưu.

Nếu vị tỳ-khưu nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say thì vị tỳ-khưu ấy phạm điều-giới pācittiya.

Vị tỳ-khưu dù biết, dù không biết rượu, bia và các chất say, khi uống vào khỏi cổ vẫn bị phạm điều-giới pācittiya.

Đã phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy rồi, vị tỳ-khưu cần phải tìm đến một vị tỳ-khưu khác không uống rượu, bia và các chất say, để làm lễ xin sám hối đúng theo nghi thức trong luật mà Đức-Phật đã chế định, ban hành đến chư tỳ-khưu.

Sau khi sám hối xong, vị tỳ-khưu ấy có giới trở lại.

Một người thường uống rượu, bia và các chất say đã trở thành thói quen nghiện rượu, nghiện thuốc phiện, nghiện thuốc lá, v.v… không dễ dàng từ bỏ; bởi vì, cảm thấy chưa biết no đủ, vẫn còn thèm khát mãi mãi.

Đức-Phật dạy trong kinh Atittasutta(1) có 3 điều không biết no đủ, vẫn thèm muốn mãi mãi như sau:

Không biết no đủ trong sự nằm ngủ.

Không biết no đủ trong sự uống rượu và các chất say.

Không biết no đủ trong sự hành-dâm.

Thật ra, 3 điều này thường phát sinh do phiền não tham muốn, do tâm tham là nhân sinh khổ cả trong kiếp hiện-tại lẫn vô số kiếp vị-lai.

Sự uống rượu, bia và các chất say là một thói hư tật xấu, do phiền-não tham muốn là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp, say mê trong mọi ác-pháp, phát sinh các bệnh nan y.

Người thiện-trí có giới, có tác-ý tránh xa sự uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp, còn tránh được các thứ bệnh nghiện rượu và các chất say nữa.

Vấn: Uống rượu, bia và các chất say thuộc về ác- nghiệp nào trong 10 ác-nghiệp?

Đáp: 10 ác-nghiệp phát sinh do nương nhờ nơi thân, khẩu, ý:

Thân ác-nghiệp gọi thân hành-ác có 3 loại:

1- Ác-nghiệp sát-sinh.

2- Ác-nghiệp trộm-cắp.

3- Ác-nghiệp tà-dâm.

Khẩu ác-nghiệp gọi khẩu nói-ác có 4 loại:

1- Ác-nghiệp nói-dối.

2- Ác-nghiệp nói lời chia rẽ.

3- Ác-nghiệp nói lời thô tục.

4- Ác-nghiệp nói lời vô ích.

Ý ác-nghiệp gọi ý nghĩ ác có 3 loại:

1- Ác-nghiệp nghĩ tham lam của người khác.

2- Ác-nghiệp nghĩ thù hận người khác.

3- Ác-nghiệp nghĩ tà-kiến thấy sai chấp lầm.

Uống rượu, bia và các chất say là 1 điều-giới cấm trong ngũ-giới, bát-giới Uposathasīla, cửu-giới uposatha-sīla v.v… mà trong 10 ác-nghiệp này, uống rượu và các chất say không có tên gọi ác-nghiệp riêng biệt như những ác-nghiệp khác.

Vì sao vậy?

Uống rượu, bia và các chất say chắc chắn thuộc về ác-nghiệp, nhưng ác-nghiệp này có tính chất bất định, nên không có tên gọi ác-nghiệp riêng biệt.

Ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say này tùy thuộc vào ác-nghiệp nào mà nó liên quan, thì nó có tên gọi chung với ác-nghiệp ấy.

Xét Trong Những Trường Hợp Sau:

* Trường hợp người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say để thoả mãn cơn thèm muốn thưởng thức vị của rượu, bia hoặc chất say, rồi say túy lúy, hoàn toàn không còn biết mình, nằm ngủ cho đến khi tỉnh say.

Như vậy, người ấy phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say đã tạo ác-nghiệp, ác-nghiệp này được ghép vào ác-nghiệp tà-dâm.

Trong điều-giới tà-dâm có danh từ kāmesumicchācāra là hành bất chánh trong ngũ-dục nghĩa là hành-dâm bất chánh với người không phải là vợ, là chồng của mình.

Ngũ-dục là sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục.

* Người phạm điều-giới tà-dâm để thoả mãn tâm tham muốn thưởng thức ngũ-dục trong thân của người khác.

* Người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say để thoả mãn cơn thèm muốn, thưởng thức vị, hương của chất rượu, bia hoặc chất say, cũng như người phạm điều-giới tà-dâm để thoả mãn tâm tham muốn, thưởng thức ngũ-dục trong thân của người khác, tạo ác-nghiệp tà-dâm. Cho nên, 2 điều-giới này có đối-tượng tương tự với nhau.

Vì vậy, người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say đã tạo ác-nghiệp, ác-nghiệp này được ghép chung vào ác-nghiệp tà-dâm.

* Trường hợp một người vốn có tính hay nhút nhát, biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, không dám làm mọi ác-nghiệp. Khi người ấy uống rượu, bia hoặc chất say vào, phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say. Chất rượu, bia hoặc chất say kích thích tâm tham, tâm sân, tâm si, người ấy không còn tự chủ, trở nên người hung hăng, bạo dạn, liều lĩnh không còn biết hổ-thẹn tội- lỗi, không còn biết ghê-sợ tội-lỗi, dám tạo 10 ác-nghiệp.

Nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, rồi say mê không còn tự chủ, không biết hổ- thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, hung hăng, dám liều lĩnh tạo ác-nghiệp nào, người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy đã tạo ác-nghiệp, thì ác- nghiệp uống rượu, bia và các chất say này được ghép chung với ác-nghiệp ấy.

* Nếu như người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, trở thành người hung hăng dám liều lĩnh tạo ác-nghiệp sát-sinh, người ấy phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say đã tạo ác-nghiệp, thì ác- nghiệp ấy được ghép chung với ác-nghiệp sát-sinh.

Tương tự như vậy:

* Nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê- sợ tội-lỗi, trở thành người liều lĩnh rồi dám tạo ác- nghiệp trộm-cắp, người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy đã tạo ác-nghiệp, thì ác-nghiệp ấy được ghép chung với ác-nghiệp trộm-cắp.

* Nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê- sợ tội-lỗi, trở thành người liều lĩnh rồi dám tạo ác- nghiệp tà-dâm, người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy đã tạo ác-nghiệp, thì ác-nghiệp ấy được ghép chung với ác-nghiệp tà-dâm.

* Nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê- sợ tội-lỗi, trở thành người liều lĩnh rồi dám tạo ác- nghiệp nói-dối, người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy đã tạo ác-nghiệp, thì ác-nghiệp ấy được ghép chung với ác-nghiệp nói-dối.

* Nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê- sợ tội-lỗi, trở thành người liều lĩnh rồi dám tạo ác- nghiệp nói lời chia rẽ, người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy đã tạo ác-nghiệp, thì ác-nghiệp ấy được ghép chung với ác-nghiệp nói lời chia rẽ.

* Nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê- sợ tội-lỗi, trở thành người liều lĩnh rồi dám tạo ác- nghiệp nói lời thô-tục (chửi rủa, mắng nhiếc), người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy đã tạo ác-nghiệp, thì ác-nghiệp ấy được ghép chung với ác- nghiệp nói lời thô-tục.

* Nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê- sợ tội-lỗi, trở thành người liều lĩnh rồi dám tạo ác- nghiệp nói lời vô ích, người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy đã tạo ác-nghiệp, thì ác-nghiệp này được ghép chung với ác-nghiệp nói lời vô ích.

* Nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê- sợ tội-lỗi, trở thành người liều lĩnh rồi dám nghĩ tham lam của cải của người khác, người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy đã tạo ác-nghiệp, thì ác- nghiệp này được ghép chung với ác-nghiệp tham lam của cải của người khác.

* Nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê- sợ tội-lỗi, trở thành người liều lĩnh rồi dám nghĩ thù oán người khác, phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy đã tạo ác-nghiệp, thì ác-nghiệp ấy được ghép chung với ác-nghiệp thù oán người khác.

* Nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê- sợ tội-lỗi, trở thành người liều lĩnh rồi dám phát sinh tà- kiến thấy sai chấp lầm, người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy đã tạo ác-nghiệp, thì ác- nghiệp ấy được ghép chung với ác-nghiệp tà-kiến thấy sai chấp lầm.

Vì vậy, phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say là nhân tạo 10 ác-nghiệp. Cho nên, phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say tạo ác-nghiệp thuộc về ác-nghiệp bất-định, nên không chế định ra ác-nghiệp riêng biệt.

Thật vậy, Ngài Trưởng-lão Ānanda (lớp người hậu sinh)  biên  soạn  bộ  Mūlaṭīkā  giảng  giải  về  ác-nghiệp của người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say rằng:

“Tassa sabhāgattena micchācāre, upakārakattena dasasu pi kammapathesu anuppaveso hoti.”

Nếu người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say đã tạo ác-nghiệp, thì ác-nghiệp này được ghép chung vào ác-nghiệp tà-dâm, bởi vì điều-giới này có đối tượng tương tự như điều-giới tà-dâm. Và người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say đã tạo ác- nghiệp, thì ác-nghiệp này cũng được ghép chung vào trong 10 ác-nghiệp, bởi vì phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say này là nhân tạo 10 ác-nghiệp.

Tính Chất Nghiêm Trọng Của Người Phạm Điều-Giới Uống Rượu, Bia Và Các Chất Say

Người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, không biết tự chủ, trở thành người hung hăng dám liều lĩnh tạo mọi ác-nghiệp nghiêm trọng, mà lúc tỉnh táo không dám làm ác-nghiệp như vậy.

Khi người nào thường dùng các chất say như thuốc- phiện, ma-túy, cần-sa, v.v… trở thành bệnh nghiện nặng, đến khi người ấy lên cơn thèm khát các chất say ấy mà không có sẵn, khiến cho người ấy lên cơn điên loạn, hung hăng dám liều lĩnh tạo mọi ác-nghiệp nghiêm trọng, mà lúc tỉnh táo không dám làm ác-nghiệp như vậy.

Cho nên, người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say là nguyên nhân dẫn đến tạo mọi ác-nghiệp rất nghiêm trọng gây tai hại trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.

Trong Chú-giải Suttanipātaṭṭhakathā, giải về tội-ác của sự uống rượu, bia và các chất say:

“Yasmā pana majjapāyī aṭṭhaṃ na jānāti, dhammaṃ na jānāti, mātu antarāyaṃ karoti, pitu Buddha paccekabuddha tathāgatasāvakānampi antarāyaṃ karoti,

 

diṭṭheva dhamme garahaṃ, samparāye duggatiṃ, aparāpariye ummādañca pāpuṇāti.”(1)

Người thường uống rượu, bia và các chất say, không biết quả, không biết nhân, gây ra sự tai hại đến sinh- mạng của mẹ của cha, gây ra sự tai hại đến Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, Đức-Phật Độc-Giác, các hàng thanh- văn đệ-tử của Đức-Phật.

Trong kiếp hiện-tại, người uống rượu, bia và các chất say thường bị chư thiện-trí chê trách.

Sau khi người uống rượu, bia và các chất say chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh trong cõi ác-giới: địa- ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh.

Đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy trong cõi ác-giới, nếu có đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh kiếp sau làm người thì người ấy sẽ là người mất trí, người điên cuồng.

Và Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa dạy trong ngũ-giới, người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện pháp tạo đại tội mà hậu quả vô cùng nghiêm trọng hơn 4 điều-giới còn lại như sau:

“Apicettha surāmerayamajjappamādaṭṭhānameva mahāsāvajjaṃ na tathā pāṇātipātādayo. Kasmā manussabhūtassāpi ummattakabhāvasaṃvattanena ariya- dhammantarāyakaraṇato’ti. Evamettha mahāsāvajjatopi viññatabbo vinicchayo.(2)”

Sự thật, trong ngũ-giới ấy, người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp, tạo ác-nghiệp đại trọng tội hơn phạm 4 điều-giới còn lại là điều-giới sát-sinh, điều-giới trộm-cắp, điều-giới tà-dâm, điều-giới nói-dối, bởi vì phạm 4 điều-giới này gây hậu quả ít nghiêm trọng hơn phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say. Tại sao?

Phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say này còn là nhân làm cho người ấy mắc phải chứng bệnh điên, mất trí, làm tai hại cho sự chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn.

Nên hiểu ý nghĩa “mahāvajja: đại trọng tội” trong trường-hợp này.

Thật vậy, trong ngũ-giới, dù người nào đã phạm điều- giới sát-sinh như giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra- hán, đã tạo ác-nghiệp vô-gián trọng-tội (ānantariya- kamma).

Sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy trong ác-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-tâm gọi là ác-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong suốt thời gian lâu dài suốt nhiều đại-kiếp trái đất, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục ấy.

Sau khi thoát ra khỏi cõi địa-ngục ấy, nếu có đại- thiện-nghiệp hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ tái- sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là dục-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người, thì người ấy thuộc về hạng người tam-nhân từ khi đầu thai.

Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, hạng người tam- nhân vốn có trí-tuệ, nếu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.

* Ví dụ trong thời kỳ Đức-Phật Gotama, có Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna là bậc Thánh Tối- thượng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.

Tiền-kiếp xa xưa của Ngài Đại-Trưởng-lão vốn là một người con chí hiếu đối với mẹ cha già đui mù.

Về sau, người con trai vâng lời mẹ cha, chịu lấy vợ. Người vợ không muốn sống chung với mẹ cha chồng đui mù, vì chiều theo ý vợ, nên người con trai bày mưu đánh xe chở mẹ cha già đui mù đi thăm bà con, đến khu rừng, người con trai xuống xe, giả làm tên cướp đến đánh đập cha mẹ đui mù đến chết, bỏ xác trong rừng, đã tạo ác- nghiệp vô-gián trọng-tội giết mẹ cha.

Sau khi tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão chết, ác- nghiệp vô-gián trọng-tội giết mẹ cha ấy cho quả tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, trong suốt thời gian lâu dài suốt nhiều đại-kiếp trái đất, cho đến khi mãn quả của ác- nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi địa-ngục.

Trong thời-kỳ Đức-Phật Anomadassī xuất hiện trên thế gian, tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmog- gallāna là trưởng giả Sirivaḍḍhana đã từng tạo các pháp-hạnh ba-la-mật đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, có ý nguyện muốn trở thành vị Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử có phép thần-thông xuất sắc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật trong thời vị lai. Trưởng giả Sirivaḍḍhana tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão được Đức-Phật Anomadassī thọ ký rằng:

Này Sirivaḍḍhana! Ý nguyện của con sẽ được thành- tựu trong thời vị lai, còn 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa, Đức-Phật Gotama sẽ xuất hiện trên thế gian. Khi ấy, con sẽ là vị Thánh Tối-thượng thanh- văn đệ-tử có phép thần-thông xuất sắc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

Tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão tiếp tục cố gắng tinh-tấn tạo 10 pháp-hạnh ba-la-mật suốt 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất cho được đầy đủ.

* Đến thời kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu kiếp của người con trai giết mẹ cha đui mù, cũng là tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmog- gallāna sinh vào trong dòng Bà-la-môn có tên Kolita, xuất gia trở thành tỳ-khưu nơi Đức-Phật Gotama, có tên là tỳ-khưu Mahāmoggallāna thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, gọi là bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử có phép thần-thông xuất sắc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

* Trường hợp Đức-vua Ajātasattu giết Đức Phụ- vương là Đức-vua Bimbisāra (bậc Thánh Nhập-lưu).

Về sau, Đức-vua Ajātasattu biết ăn năn hối lỗi, ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, khi ấy, Đức-Phật thuyết giảng bài kinh Sāmaññaphalasutta tế độ Đức-vua, sau khi nghe bài kinh ấy xong, Đức-vua Ajātasattu phát sinh pháp hỷ lạc chưa từng có, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo là quy-y Đức-Phật-bảo, quy-y Đức-Pháp-bảo, quy-y Đức-Tăng- bảo, kính xin Đức-Phật công nhận Đức-vua là người cận-sự-nam đã quy-y Tam-bảo đến trọn đời. Khi ấy, Đức-vua thành tâm sám hối tội lỗi giết Đức Phụ-vương Bimbisāra, của mình, kính xin Đức-Phật chứng minh.

Từ đó, Đức-vua Ajātasattu là người cận-sự-nam có đức-tin đặc biệt trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, hết lòng hộ độ Tam-bảo đến trọn đời.

Thật vậy, Đức-vua Ajātasattu là người hộ độ 500 chư Trưởng-lão bậc Thánh A-ra-hán, trong kỳ kết tập Tam- tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất, do Ngài Đại- Trưởng-lão Mahākassapa chủ trì gồm có 500 chư Trưởng-lão bậc Thánh A-ra-hán, tại động Sattapaṇṇi gần kinh thành Rājagaha đất nước Māgadha, thời gian sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn khoảng 3 tháng 4 ngày, suốt 7 tháng mới hoàn thành xong trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.

Sau khi Đức-vua Ajātasattu băng hà, đáng lẽ ác- nghiệp vô-gián trọng-tội giết Đức Phụ-vương trong ác- tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi- kāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, nhưng nhờ đại-thiện-nghiệp quy-y Tam-bảo, và nhất là đại-thiện-nghiệp hộ độ 500 chư Trưởng-lão bậc Thánh A-ra-hán, trong kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất có năng lực làm giảm tiềm năng cho quả của ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy, nên chỉ làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi tiểu-địa-ngục Lohakumbhī (nồi đồng sôi), chịu quả khổ suốt thời gian 60.00 (sáu mươi ngàn) năm mà thôi.

Như Đức-Phật Gotama thọ ký được tóm lược:

Sau khi Đức-vua Ajātasattu băng hà, ác-nghiệp vô- gián trọng-tội giết Đức Phụ-vương cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi tiểu-địa-ngục Lohakumbhī (nồi đồng sôi), từ miệng nồi chìm xuống đến đáy nồi suốt 30.000 năm, rồi từ đáy nồi nổi lên đến miệng nồi suốt 30.000 năm, mới mãn quả của ác-nghiệp ấy, rồi do nhờ đại- thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại- quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi- citta) làm phận sự tái-sinh kiếp chót trở lại làm người trong thời-kỳ không có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, hậu-kiếp của Đức-vua Ajātasattu xuất gia trở thành Đức- Phật Độc-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Độc-Giác Vijitāvī.

Hai tích dẫn chứng trên để chứng tỏ rằng:

Nếu người nào đã tạo ác-nghiệp giết cha, giết mẹ, thuộc về ác-nghiệp vô-gián trọng-tội, thì sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài trải qua nhiều đại- kiếp trái đất, cho đến khi mãn quả khổ của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.

Thế mà, sau khi thoát ra khỏi địa-ngục, do nhờ đại- thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ khác cho quả  trong  thời-kỳ  tái-sinh  kiếp  sau  (paṭisandhikāla)  có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta)  làm  phận  sự  tái-sinh  kiếp  sau  đầu  thai làm hạng người tam-nhân từ khi đầu thai trong lòng mẹ.

Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành,  người  tam-nhân vốn có trí-tuệ, nếu người tam-nhân thực-hành pháp-  hành thiền-tuệ thì có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết- bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

Còn nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say tạo ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say, thì sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái- sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế- tiếp trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc- sinh), chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới ấy.

Sau khi thoát khỏi cõi ác-giới rồi, nếu có đại-thiện- nghiệp khác trong đại-thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người.

Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành người ấy còn phải chịu quả khổ của ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say trong kiếp quá-khứ, nên người ấy mắc bệnh điên cuồng, mất trí nên không thể thực-hành pháp-hành thiền-định, cũng không thể thực-hành pháp-hành thiền- tuệ. Cho nên, người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp, đã tạo mọi ác-nghiệp, đem lại những hậu quả tai hại vô cùng nghiêm trọng trong kiếp hiện-tại và kiếp vị-lai.

Sự Tai Hại Của Sự Uống Rượu, Bia Và Các Chất Say

Trong ngũ-giới có 5 điều-giới từ điều-giới thứ nhất đến điều-giới thứ tư, nếu người nào lỡ phạm điều-giới nào đã tạo ác-nghiệp dù nhẹ, dù nặng, thậm chí tạo ác- nghiệp vô-gián trọng-tội giết mẹ, giết cha của mình, sau khi chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy rồi, thì những kiếp vị-lai của người ấy còn hy vọng tiến hóa trong mọi thiện- pháp được.

Còn điều-giới thứ năm là điều-giới tránh xa sự uống rượu, bia và các chất say … nếu người nào đã phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp này rồi, đã tạo ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say thì có hậu quả tai hại vô cùng nghiêm trọng, không chỉ trong kiếp hiện-tại trở thành người nghiện rượu, bia, nghiện thuốc- phiện, nghiện ma-túy, nghiện cần-sa, nghiện thuốc lá, v.v… trong kiếp hiện-tại người ấy không chỉ mắc nhiều chứng bệnh nan y, gây ra mọi tai họa, mà còn những kiếp vị-lai trở thành người điên cuồng mất trí làm trở ngại, nên hành-giả không thể chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không thể chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn lại càng bất hạnh hơn nữa

Cho nên, rượu, bia và các chất say có sự tai hại vô cùng nghiêm trọng như vậy, thế mà có một số người sử dụng rượu, bia và các chất say như là thức uống xã  giao trong đời.

Như khi hai người bạn cũ gặp lại nhau, dẫn nhau vào quán để uống rượu, bia nói chuyện, trong những buổi tiệc mừng dù nhỏ dù lớn cũng không thể thiếu món  rượu, bia để đãi khách quý, v.v…

Một số người lạm dụng uống rượu, bia và sử dụng các chất say hằng ngày, nên trở thành người nghiện rượu, bia, nghiện thuốc-phiện, nghiện ma-túy, nghiện cần-sa, nghiện thuốc lá, v.v…mắc nhiều chứng bệnh nan y, thường xảy ra mọi tai họa khủng khiếp, tự làm khổ mình và làm khổ những người thân trong gia đình, bà con thân quyến, trong kiếp hiện-tại.

Người thiện-trí biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, tin nghiệp và quả của nghiệp, biết tự trọng, biết thương yêu mình, biết thương yêu mọi người, mọi chúng-sinh khác, nên biết giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn, nhất là điều-giới tránh xa uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp, biết giữ gìn nhân-phẩm quý báu vốn có của mình.

Tội-Ác Từ Say Rượu

Đức-Phật đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh- thành Sāvatthi, khi ấy, Đức-Phật thuyết về tích tiền-kiếp của Đức-Phật là Đức-Bồ-tát Dhammadhaja(1) có một đoạn giảng giải về tội-ác phát sinh từ say rượu, được  tóm lược như sau:

Đức-Bồ-tát Dhammadhaja là quan cận thần của Đức- vua Yasapāni, có một người bạn thân tên Chattapānī.

Ông Chattapāni là người thợ cắt tóc, sửa râu của Đức-vua Yasapāni. Ông Chattapāni có bản tính tự nhiên do lời chân thật phát nguyện không bao giờ uống rượu trong suốt mỗi kiếp cho đến khi trở thành bậc Thánh A- ra-hán, bởi vì, ông nhận thức thấy rõ tội-ác từ uống rượu, say rượu…

Một hôm, người thợ cắt tóc Chattapāni tâu với Đức-vua Yasapāni rằng:

– Muôn tâu Đại-vương, trong tiền-kiếp kẻ hạ thần đã từng ăn thịt con yêu quý của mình, bởi vì say rượu. Sau khi tỉnh say rượu, kẻ hạ thần vô cùng sầu não, khổ tâm cùng cực, vì thương nhớ đến đứa con yêu quý nhất. Rồi từ kiếp đó về sau, hạ thần đã phát nguyện trong suốt mỗi kiếp không bao giờ uống rượu nữa.

Người thợ cắt tóc Chattapāni thuật lại câu chuyện xảy ra rằng:

Muôn tâu Đại-vương, tiền-kiếp của hạ thần cũng làm vua trị vì xứ Bārāṇasī, khi hạ thần là Đức-vua, hằng ngày không thể thiếu món rượu, và trong mỗi bữa ăn không thể thiếu món thịt.

Trong kinh-thành Bārāṇasī thời ấy, vào ngày giới hằng tháng, người ta không sát-sinh, cho nên người đầu bếp phải mua thêm thịt vào trước ngày giới, để dành phần cho ngày hôm sau. Do sơ suất, ông cất giữ món  thịt ấy không cẩn thận, nên bị con chó ăn mất hết.

Sáng hôm ấy, nhằm vào ngày giới, người đầu bếp đi tìm mua thịt khắp mọi nơi, mà không có món thịt nào cả. Ông cố gắng nấu những món ăn thơm tho ngon lành xong, mà chưa dám đem dâng lên Đức-vua đang ở trên

lâu đài. Ông vào tâu với bà chánh-cung hoàng-hậu rằng:

Tâu Chánh-cung Hoàng-hậu, hôm nay, kẻ hạ thần đi tìm mua thịt khắp mọi nơi mà không có món thịt nào.

Bữa ăn hôm nay không có món thịt, nên kẻ hạ thần chưa dám dâng lên Đức-vua. Bây giờ, kẻ hạ thần phải làm thế nào? Tâu lệnh bà.

Này ngươi! Hoàng-tử của ta được Đức-vua thương yêu quý mến nhất, khi Đức-vua đang thương yêu, âu yếm ôm hoàng-tử vào lòng, chắc Đức-vua không còn quan tâm đến bữa ăn có món thịt hay không.

Bà Chánh-cung Hoàng-hậu trang điểm cho hoàng-tử thật đáng yêu, rồi bồng hoàng-tử đặt ngồi trên vế của Đức-vua. Đức-vua say mê vui đùa với hoàng-tử. Khi ấy, người đầu bếp đem vật thực vào dâng lên Đức-vua. Khi đang say rượu, Đức-vua nhìn trong mâm thức ăn không thấy món thịt, bèn phán rằng:

Tại sao hôm nay không có món thịt? Người đầu bếp hoảng sợ tâu rằng:

Muôn tâu Bệ-hạ, hôm nay là ngày giới, nên kẻ hạ thần đi tìm khắp mọi nơi, mà cũng không mua được món thịt nào cả.

Đức-vua đang trong lúc say ngất ngưởng phán rằng: Tìm thịt làm món ăn cho Trẫm, khó đến như vậy sao?

Đức-vua bèn nắm đầu hoàng-tử vặn cổ chết tươi, rồi ném xuống trước mặt người đầu bếp, mà phán tiếp rằng:

Ngươi hãy mau đem đi làm món ăn cho Trẫm!

Người đầu bếp tuân theo lệnh của Đức-vua, làm món ăn bằng thịt của hoàng-tử, rồi đem lên dâng Đức-vua dùng trong bữa ăn tối hôm ấy.

Chánh-cung Hoàng-hậu và tất cả những người hầu chẳng có một ai dám khóc than, phản đối gì cả, bởi vì họ rất sợ Đức-vua.

Đức-vua dùng bữa ăn tối xong, nằm ngủ cho đến sáng ngày hôm sau mới thức dậy. Đã tỉnh cơn say, Đức-vua truyền lệnh rằng:

Hãy bồng hoàng-tử yêu quý của ta đến đây!

Bà Chánh-cung Hoàng-hậu đến chầu, cúi lạy dưới chân Đức-vua mà than khóc.

Đức-vua bèn truyền hỏi rằng:

Này ái-khanh! Ái-khanh khóc vì chuyện gì?

Tại sao ái-khanh không bồng hoàng-tử yêu quý của Trẫm đến đây?

Chánh-cung Hoàng-hậu tâu rằng:

Muôn tâu Hoàng-thượng, chiều hôm qua Hoàng- thượng đã vặn cổ hoàng-tử chết tươi, rồi trao cho người đầu bếp bảo làm món ăn dâng lên Hoàng-thượng.

Hoàng-thượng đã dùng bữa ăn với món thịt của hoàng- tử từ tối hôm qua rồi.

Lắng nghe Chánh-cung Hoàng-hậu tâu như vậy, Đức- vua vô cùng hối hận, khổ tâm sầu não, vì thương tiếc hoàng-tử yêu quý.

Khi đã nhận thức rõ tội-ác khủng khiếp phát sinh từ uống rượu, say rượu, Đức-vua bèn chắp chặt đôi tay  đưa lên trán, rồi phát nguyện rằng:

“Kể từ kiếp này về sau, và những kiếp sau kế-tiếp cho đến kiếp chót trở thành bậc Thánh A-ra-hán, Trẫm nguyện sẽ không bao giờ uống rượu nữa, để không còn thấy cảnh tự làm khổ mình và làm khổ những người thân yêu của trẫm nữa.”

Thật vậy, kể từ đó cho đến trọn kiếp và trải qua vô số kiếp tử sinh luân-hồi, kiếp nào hạ thần cũng không bao giờ uống một chút rượu nào cả.

(Trích đoạn tiền-kiếp Đức-Bồ-tát Dhammadhaja)

Các bài viết trong sách

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app