[03]

PHẦN THỨ BA

ÐOẠN CHÓT CỦA CUỘC ÐỜI NGÀI TRẢ MÓN NỢ TRẦN CUỐI CÙNG

 

Bây giờ câu chuyện của chúng ta lại trùng vào lúc Ðức Bổn Sư sắp an nghỉ Niết Bàn (Parinibbàna).

Theo kinh Mahà Parinibbàna, chương 2, thì khi ấy đức Thế Tôn đang kiết hạ tại làng Beluva gần thành Vesàli. Khi mùa Hạ chấm dứt, Phật đã rời nơi đó, cũng đi trên con đường cũ, trở về Jetavana Vihàra (Kỳ Viên tịnh xá).

Phật về tới nơi, đức Trưởng lão Sàrìputta liền đến đảnh lễ đức Thế Tôn rồi lui lại vị trí nhật hành của mình. Nhưng hôm nay, không phải như thường lệ, Ngài chợt có tác ý chẳng muốn làm việc gì khác hơn là hành thiền trọn ngày. Ðoạn Ngài lấy chiếc tọa cụ bằng da của Ngài ra, và phủi chân sạch sẽ ngồi lên bằng tư thế kiết già để nhập sâu vào trong A-la-hán Thánh Ðịnh.

Ấy là dấu hiệu xác thân tứ đại của Ngài đang tiến đến thời kỳ tan rã. Trong khi Ngài sắp quyết định giờ an nghỉ vĩnh cửu của mình, Ngài bỗng nhớ đến đức Phật và muốn biết xem đức Thế Tôn sẽ nhập diệt sau hay trước những Ðại Ðệ Tử? Và Ngài quán thấy rằng chính những Ðại đệ tử sẽ nhập diệt đầu tiên.

Sau đó Ngài bắt đầu quán xét thân thể của Ngài và thấy rõ xác thân ô trược ấy chỉ chịu thêm được một tuần lễ nữa.

Rồi Ngài tìm hiểu tiếp “Ta sẽ nhập diệt nơi nào đây? Kế Ngài quán thấy: Ðức Ràhula sẽ nhập diệt cùng lúc với những vị Thiên Thánh trong từng trời thứ 33, và đức Trưởng lão Kondanna sẽ nhập diệt tại hồ Chaddanta (vùng Hin sàlaya). Sau đó là đến phiên nhập diệt của mình”.

Khi những điều quán thấy như vậy và chấm dứt thì Ngài bỗng nhớ đến mẹ già, và một tác ý hiếu hạnh lại đến: Ngài nghĩ “Mặc dù bà là mẹ của bảy A-la-hán (bảy anh chị em của Ðại Ðức Sàrìputta sau khi xuất gia đều đắc quả A-la-hán) nhưng bà không tin tưởng gì đức Phật, đức Pháp và đức Tăng. Không biết hiện tại bà có chút thiện duyên nào hộ trợ để bà có thể đạt đến sư tin kính nơi Tam Bảo ấy hay không?

Rồi Ngài dùng Tuệ Nhãn xem xét thấy nhất thời bà đang đủ điều kiện để khai thị được Trực Giác Ðạo (Abhisamaya), tức mở đầu cho những bước tiến hướng vào Thánh Lưu. Ngài mừng rỡ vội xem xét tiếp thì thấy người có duyên để cứu độ bà lại chính là Ngài chứ chẳng phải ai ai khác.

Vả lại Ngài tự nghĩ “Mình đã bao phen dắt dẫn cả nhân loại lẫn chư Thiên nương ở Tam Bảo mà chứng được Thánh quả, chẳng lẽ mình không thể tẩy trừ nổi tư kiến sai lầm của chính mẹ mình hay sao?”.

Ðoạn Ngài quyết định phải tiếp độ bà để đền đáp ơn sinh dưỡng ra Ngài trong kiếp chót. Nhưng hiện tại sức khỏe của Ngài quả rất kém, bởi Ngài đang chuẩn bị để nhập Niết Bàn. Thời gian còn lại không cho phép Ngài trì hưỡng thêm nữa.

Nhất tâm như vậy, Ngài lập tức đến xin phép Ðức Bổn Sư để trở về làng cũ Nàlakà.

Ðồng thời Ngài cũng đến gặp Ðại Ðức Cunda, yêu cầu người bào đệ này mời 500 vị Tỳ-khưu trong nhóm của Ngài, chuẩn bị y bát để cùng đi Nàlakà. Và Ðại Ðức Cunda đã làm theo ý muốn ấy.

Do đó, chẳng mấy chốc tịnh xá dưới sự hướng dẫn của Ðại Ðức Sàrìputta bỗng trở nên hoạt động. Chư Tăng thì mạnh ai nấy lo thu gọn chỗ ở, chuẩn bị hành lý. Phần Ngài thì Ngài dọn dẹp căn phòng của mình thật sạch sẽ, rồi Ngài bước ra tận ngoài ngõ đứng nhìn vào nơi ngụ mà nghĩ rằng “Ðây là cái nhìn cuối cùng của ta, vì ta chẳng bao giờ trở lại chỗ này nữa. Ðoạn cùng với năm trăm vị Tỳ-khưu, Ðại Ðức Sàrìputta đến đảnh lễ đức Thế Tôn thêm lần nữa, và Ngài nói:

– Bạch đức Thế Tôn. Xin Ngài cho phép đệ tử có đôi lời tán dương ân đức một vị Phật, vì thời gian nhập diệt của đệ tử đã đến. Ðệ tử sắp từ bỏ kiếp sống trần tục này.

Rồi Ngài tiếp:

– Ôi một đấng Cứu Thế. Một Thánh nhân vĩ đại vô biên. Từ kiếp sống trầm luân, nhờ Ngài mà đệ tử đã được giải thoát. Ðệ tử sẽ không còn đi và về trong cõi tội lỗi nữa. Và đây là lời phụng bái sau cùng đến Ngài.

– Kiếp sống nhục thể của đệ tử đã ngăn lại rồi. Chỉ còn bảy hôm nữa, sau đó Ngũ uẩn này không kéo dài thêm được. Khi thân thể đã nằm xuống, gánh nặng luân hồi của đệ tử cũng không còn nữa.

– Ôi đức Bổn Sư! Thực là một hồng ân xin Ngài cho phép đệ tử ca ngợi AÂn Ðức của Ngài. Với lần sau cùng sắp nhập Niết Bàn này, đệ tử đã từ bỏ các ràng buộc hiện có để tương lai sẽ bất sinh bất tử.

Bây giờ, chúng ta hãy nhắc lại những lời dạy của đức Phật. Nếu đức Thế Tôn trả lời là “Như Lai cho phép ông nhập diệt” những kẻ hẹp hòi thù nghịch sẽ nói rằng: “Ngài tán đồng sự chết”. Và nếu Phật trả lời: “Ðừng nhập diệt vội” thì họ sẽ bảo Ngài mong muốn sự tiếp tục kiếp vô thường.

Do đó, đức Thế Tôn đã không nói gì theo hai cách trên. Nhưng Ngài lại hỏi:

– Này Sàrìputta!. Nơi nào sẽ là chỗ nhập diệt của ông?

– Bạch đức Thế Tôn! Trong xứ Magadha, tại làng cũ gọi là Nàlakà, và chính căn phòng mà ngày xưa đệ tử được sinh ra sẽ là nơi nhập diệt của đệ tử.

Rồi Ðức Thế Tôn đề nghị:

– Này Sàrìputta!. Hiện ông có đủ thời giờ chăng? Sau lần tiếp xúc này, những huynh đệ của ông trong hàng Tăng lữ sẽ không có dịp để thấy lại một Tỳ-khưu như ông nữa. Vậy ông nên ban bố cho họ một thời pháp cuối cùng đi.

Ðức Trưởng lão bèn thuyết một bài pháp, từ sự trình bày những uy lực mầu nhiệm của Ngài cho tới mọi chiều sâu chân lý tối thượng, rồi trở lại những tầm thường diễn tả các sự thực về cuộc đời. Cứ như vậy mà Ngài đưa thính giả lên những pháp tận cùng sâu xa rồi lại cắt nghĩa thấp xuống đến những pháp tầm thường thấp thỏi. Ngài đã giảng giải Bảo pháp hết sức trực tiếp theo một phương pháp ước lệ thực tế. Và khi Ngài kết thúc thời pháp, Ngài đã quỳ mọp dưới chân đức Bổn Sư để tỏ lòng tôn kính. Khi ôm đôi chân Chí Tôn của đức Phật, Ngài đã nói:

Sở dĩ đệ tử lễ bái những bàn chân này là vì đệ tử đã được đầy đủ sự hoàn toàn của một bậc Giác Ngộ để được sống trong cái thời gian vĩnh cửu và trong một không gian bất hoại (Kalpas). Nguyện vọng duy nhất của đệ tử đã được thể hiện đầy đủ. Kể từ đây về sau, đệ tử sẽ không còn dịp để tiếp xúc hay gặp gỡ đức Thế Tôn nữa. Giờ là phút nghiêm trọng, vì nó là sự thông tri sau cùng giữa các bậc Toàn Giác. Cõi Niết Bàn, một cảnh giới không tuổi thọ, không sanh tử, bình thản, tối thượng lạc, chẳng tạo sinh đau khổ và vô cùng ổn định. Nơi đó hàng trăm ngàn chư Phật đã bước chân vào, và rồi đây đệ tử cung sẽ nhập vào cảnh đó.

Sau cùng, đức Trưởng lão khải sám:

– Bạch đức Thế Tôn! Từ trước đến giờ nếu đệ tử có hành vi hay lời nói nào làm Ngài không vừa ý, xin đức Bổn Sư hãy tha lỗi cho Ðệ tử vì giờ đây là điểm thời gian mà đệ tử sắp ra đi, không bao giờ trở lại.

Ðức Phật hiền từ trả lời:

– Này Sàrìputta!. Không một hành vi hay lời nói nào của ông có thể làm cho Như Lai chẳng vừa ý hay quở trách ông được, bởi ông là một Tỳ-khưu uyên bác, có một sức thông minh vĩ đại, có một trí tuệ tiềm tàng sắc bén, nhanh nhẹn, sáng sủa và quảng đại (viết dựa theo kinh Vangisa Saômyutta No. 7 )

Rồi Phật lại tiếp:

– Này Sàrìputta!. Thật là cao thượng khi một Ðệ tử chân thành khải sám trước Tôn Sư. Nhưng thực sự lỗi lầm dù chỉ một tiếng nói hay một hành vi vô ý của ông cũng không có nữa. Với lòng từ bi, Như Lai luôn luôn chúc lành đến ông. Bây giờ thì ông có thể lên đường, và hãy tưởng nhớ đến những gì hợp thời.

Ðến đây chúng ta thấy rằng vào những dịp hiếm có như đã nói. Khi đức Bổn Sư tỏ lời khiển trách các Ðại đệ tử của Ngài: Ðó không phải là Phật bất bình đối với Ðại Ðức Sàrìputta về bất cứ chuyện gì. Nhưng ấy chính là Ngài muốn vạch rõ cho đệ tử ưu tú của Ngài thêm con đường nhận định bổn phận, hoặc thêm phương pháp quán sát một vấn đề.

Ngay sau khi đức Thế Tôn cho phép, và Ðại Ðức Sàrìputta đã lìa khỏi đôi bàn chân của đức Phật theo thể thức tôn kính mà Ngài đã thường làm, thì lúc ấy đại địa cầu đã làm cho nước trong năm châu bốn biển dao động như chứng tỏ rằng: “Mặc dù tôi đã chịu đựng được những dãy núi điệp trùng thắt lên thân thể tôi, như ngọn Meru hùng vĩ, như thành sơn cao ngất Cakkavàla và Himavantu (Hy Mã Lạp Sơn) chẳng hạn tôi cũng không chịu nổi ngày hôm nay, một ngày mà giới đức từ bi vô lượng đã được qui tụ”.

Tiếp theo đó, bỗng có một tiếng sấm đầy uy vũ vang lên trên tất cả các từng trời, và không biết một dãy mây khổng lồ từ đâu hiện ra che áng hầu hết không gian, rồi một trận mưa lịch sử đã đổ ào trên mặt đất.

Ðức Thế Tôn lại nghĩ: “Giờ đây ta sắp cho phép một vị Chưởng Pháp như Sàrìputta khởi hành”. Rồi Ngài rời khỏi chỗ ngồi của mình đến một căn phòng đầy hương thơm và đứng trên một tấm thảm ngọc.

Ðại Ðức Sàrìputta đi xung quanh căn phòng ấy đến ba lần giữ bên mặt của Ngài về hướng đức Phật và làm những động tác tôn kính tại bốn nơi khác nhau. Khi ấy thì một ý nghĩ phát lên trong trí óc Ngài. “Một thời gian vô lượng và một không gian bất tận không biết đã trải qua bằng bao trăm ngàn đại kiếp (Kalpas) chính là giờ phút này. Khi ta mọp xuống dưới chân Ðức Phật ANOMADASSI và phát đại nguyện được gặp vị Thích Ca Như Lai. Nguyện vọng ấy đã được thể hiện và ta đã gặp Ngài. Lần gặp gỡ đầu tiên ta đã được Ngài thọ ký. Giờ đây là lần chiêm ngưỡng sau chót của ta đối với Ngài vì trong tương lai sẽ chẳng bao giờ có nữa”.

Sau cùng, bằng một cử chỉ chắp tay đưa lên cao đầy tôn kính, Ðại Ðức Sàrìputta đã dời gót khởi hành, mắt nhìn về hướng đức Phật với một tư thế bái biệt. Ngài bước đi thụt lùi như vậy cho đến khi nào không còn trông thấy đức Thế Tôn nữa. Và do đó, lại một lần nữa đại địa cầu cũng không thể chịu được, đã rung động làm cho nước bốn bể năm châu nổi sóng.

Kế đó, đức Phật bèn nhắn nhủ giữa những hàng Tăng chúng: “Này chư Tỳ-khưu! Các ông hãy đi đi! Ði tiễn chân vị Ðại sư huynh của mình”.

Phật vừa nói xong thì cả bốn nhóm Tăng Lữ có mặt lập tức nối gót Ðại Ðức Sàrìputta ra khỏi Kỳ Viên tịnh xá, để lại một mình Phật ở đó.

Riêng Ðại Ðức Ànanda là người sẵn sàng đưa tiễn đầu tiên, và là người tỏ vẻ u buồn nhiều nhất. Ngài không ngớt thốt ra những lời thống thiết. (Như đã nói ở hai trang 44-45).

Dân chúng sống trong thành Xá Vệ cũng vậy khi nghe tin này, họ đồng kéo nhau ra khỏi nhà tiễn đưa Ðại Ðức Sàrìputta như một dòng suối dài bất tuyệt. Họ còn mang cả những vật thơm và tràng hoa để tỏ dấu chịu tang nữa. Cả đoàn dân chúng đi tiễn chân đức Trưởng lão, người nào cũng tỏ vẻ thổn thức và rơi lệ.

Ðại Ðức Sàrìputta sau đó đã khuyên nhủ đám đông dân chúng rằng:

– Hỡi quí Phật tử! Ðây là con đường mà không ai tránh khỏi. Rồi Ngài yêu cầu họ trở về.

Còn đối với chư Tỳ-khưu không cùng đi với Ngài đến Nàlakà, Ngài lại nhắc nhở:

– Xin các vị hãy trở về. Ðiều bần đạo mong muốn nhất là từ nay về sau mong các vị đừng dễ duôi trong việc chăm sóc đức Phật.

Cứ như thế, Ngài đã khuyến dụ cả Tăng lẫn tục lần lượt trở lui. Sau cùng chỉ còn lại nhóm đệ tử riêng của Ngài mới cùng Ngài lên đường theo ý định. Tuy nhiên, trong số đó vẫn còn những Tăng sĩ đang thổn thức, vừa đi vừa kể lể:

– Trước đây, vị Ðại Ðức của chúng ta dù có đi bao nhiêu chuyến hành trình rồi cũng trở về, nhưng lần này thì chuyến đi lại là lần ra đi không bao giờ trở lại.

Ðức Trưởng lão nghe được liền khuyên họ rằng:

– Này các huynh đệ! Các vị hãy giữ tâm thanh tịnh, vì sự luyến tiếc bất cứ hình thức nào của thế gian cũng đều vô nghĩa mà chỉ tạo thêm cho mình cái khổ.

Dù sức đang yếu nhưng Ngài đã phải giảng giải cho họ nghe thật nhiều lần họ mới bình tâm.

Suốt cuộc hành trình, Ðại Ðức Sàrìputta đều nghỉ lại một đêm ở bất cứ nơi nào có người nghinh đón. Và như vậy trong một tuần lễ, Ngài đã gieo rắc ân huệ giải thoát cho khá nhiều kẻ hữu duyên trong chuyến gặp gỡ sau cùng này.

Khi đến Nàlakà vào một buổi chiều, Ngài bèn dừng chân gần một cây đa ở cổng làng. Thình lình lúc ấy có người cháu trai của Ngài nhân việc đi ra ngoài nhìn thấy. Người ấy vội đến đảnh lễ đức Trưởng lão. Xong Ngài bèn hỏi:

– Thân mẫu của bần Tăng có ở nhà không?

Người ấy trả lời: “Bạch Ngài có ạ!”.

Ðức Trưởng lão liền nói: “Vậy phiền ông đi thông báo giùm cho bà biết là bần Tăng sắp về và nếu bà có hỏi chi tiết thì hãy bảo với bà rằng bần Tăng sẽ ở lại trong làng này chỉ một ngày mà thôi! Xin bà cứ sửa soạn căn phòng mà trước đây bần Tăng đã chào đời, và sắp xếp chỗ ở cho năm trăm vị Tỳ-khưu khác nữa nhé”.

Ông Uparevàta, tên người cháu của Ðại Ðức Sàrìputta, sốt sắng đến gặp mẹ Ngài và báo rằng:

– Thưa bà Ngài! Sàrìputta đã về.

Nghe xong bà liền hỏi: “Hiện giờ ông ấy ở đâu?”.

– Thưa bà! Ngài đang ở tại cổng làng.

– Ông ta đi một mình hay có ai nữa không?

– Thưa bà, Ngài về với năm trăm vị Tỳ-khưu.

Khi bà hỏi “Tại sao ông ta về” thì người cháu bèn thuật lại những lời nói của đức Trưởng lão. Bà liền nghĩ “Tại sao ông ta yêu cầu mình cung cấp chỗ ngụ cho rất nhiều người như thế? Phí bỏ thời gian còn trẻ để làm một Sa-môn, bộ khi về già ông ta muốn trở về làm cư sĩ hay sao?”.

Nhưng rồi bà cũng sắp đặt chỗ ngụ đầy đủ như vậy cho đức Trưởng lão và những vị Tỳ-khưu kia. Bà còn đốt nhiều cây đuốc và trao lại cho người cháu đem đến đức Trưởng lão và chư Tăng để soi đường đi về nhà.

Chẳng mấy chốc, Ðại Ðức Sàrìputta cùng với chư Tỳ-khưu đã vào đến sân nhà bà và Ngài tự ý bước thẳng vào căn phòng cũ của mình. Sau đó Ngài nhân danh mẹ Ngài mời tất cả chư Tỳ-khưu đến những chỗ dành riêng cho họ để nghỉ ngơi.

Ðại Ðức Sàrìputta khi ấy chợt cảm thấy một sự đau đớn lan tràn cả thân xác, Ngài vội vã lên nằm trên chiếc giường của mình và nhập ngay vào Ðại Ðịnh. Những Tỳ-khưu có bổn phận hầu hạ Ngài liền túc trực quan sát. Họ thấy da mặt Ngài lúc đỏ lúc xanh, nhưng đức Trưởng lão vẫn nằm im thiêm thiếp, phong thái vẫn bình an. Kế đến từ hạ thân của Ngài thải ra một chất nước. Thì ra Ngài đang bị bịnh đi tả hoành hành. Những học trò của Ngài phải thay phiên nhau tẩy uế. Cứ một chiếc thùng đưa ra thì một thùng khác trao vào.

Người đàn bà Bà-la-môn thoạt đầu có vẻ đố kỵ những vị Tỳ-khưu kia, nhưng khi thấy họ chăm sóc con bà một cách tận tình và kính trọng thì đâm ra có hảo cảm. Rồi càng theo dõi bịnh tình của Ðại Ðức Sàrìputta bà càng lo sợ. Lúc bấy giờ chính bà lại nhận thấy sự có mặt của năm trăm vị Tỳ-khưu kia quả là một điều cần thiết cho bà.

Trong kinh còn thuật lại rằng: Lúc đó có một chuyện lạ xảy ra: Bốn vị Thiên Vương cùng hỏi lẫn nhau “Hiện tại không biết vị Ðại A-la-hán, bậc thông hiểu vạn pháp kia đang trú ngụ nơi đâu?” Cả bốn vị Phạm Thiên ấy đã lập tức thấy rõ Ngài đang ở tại Nàlakà, trong căn phòng Ngài được sinh ra trước đây. Ngài lại đang nằm trên giường bịnh và sắp nhập Niết Bàn.

Liền đó họ cùng bảo nhau giáng trần để chiêm bái Ngài lần chót. Khi bốn vị Thiên Vương đã đến phòng bịnh của Ðại Ðức Sàrìputta, họ tự động dùng thiên lực làm cho cơn đau của đức Trưởng lão giảm xuống, rồi thỉnh Ngài xả thiền để xin lời chỉ dạy.

Ðức Trưởng lão hỏi: – Các ông là ai?

– Bạch Ngài! Chúng tôi là Tứ Ðại Thiên Vương.

– Tại sao các ông đến đây?

– Chúng tôi muốn hầu Ngài trong thời gian bệnh hoạn.

Nghe thế Ðại Ðức Sàrìputta bèn nói:

– Xin để mặc tôi. Vì tôi đã có học trò chăm sóc ở đây rồi, các ông có thể đi đi.

Khi Tứ Ðại Thiên Vương rời khỏi thì có vị vua Trời khác tên Sakka, cũng trong một vẻ tôn kính như thế, lại hiện đến thăm Ngài. Tiếp theo là những vị Ðại Phạm Thiên cũng đến vấn an, nhưng tất cả đều được đức Trưởng lão bảo trở về như trước.

Người đàn bà Bà-la-môn, mẹ Ngài, khi thấy những vị chư Thiên đến rồi đi như thế, bèn tự hỏi: “Họ là ai vậy kìa? – Ai mà đến tôn kính con ta như thế rồi lại đi?”. Bà tới tận cửa phòng của đức Trưởng lão để hỏi thăm Ðại Ðức Cunda về bịnh trạng của Ngài. Ðại Ðức Cunda vốn thấu rõ ý muốn của Ðại Ðức Sàrìputta từ trước nên bước vào trong bạch với Ngài rằng:

– Bạch đức Trưởng lão. Vị đại Tín nữ đã đến.

Ðại Ðức Sàrìputta liền mời bà vô và hỏi:

– Vì sao thân mẫu lại đến đây vào giờ bất thường này?

Bà trả lời:

– Này con! Thân mẫu đến để thăm con. Con hãy nói cho thân mẫu biết những người vừa rồi đến thăm con đầu tiên là ai vậy?

– Thưa thân mẫu! Ðó là bốn vị Ðại Thiên Vương.

Nghe thế bà liền hỏi:

– Như thế thì ông còn cao quí hơn những người đó nữa ư?

Ðức Trưởng lão đáp:

– Họ chỉ là những bậc hộ trì Phật pháp. Khi đức Bổn Sư đản sinh họ chính là những kẻ đến hầu hạ đầu tiên. Trong giáo lý Giải Thoát, họ ví như những cận vệ quân luôn luôn có uy quyền trong tay để bảo vệ một vị Phật Tổ.

– Sau khi họ đi rồi thì vị đến kế tiếp là ai thế?

– Thưa thân mẫu. Ðó là vua Trời Saka.

– Này ông con yêu quí! Ðối với đức vua Trời kia, ông có cao thượng hơn không?

Ðại Ðức Sàrìputta trả lời:

– Thưa thân mẫu! Ông chỉ như vị Sa di là người theo hầu hạ và mang vác những vật dụng của một Tỳ-khưu. Khi đức Bổn Sư từ trên cõi trời thứ ba mươi ba (Tàvatimsa, Ðao Lợi) trở về vị trời Sakka đã mang bát và y phục của Ngài để tiễn Ngài từ Thiên giới đến cõi trần với một lòng tôn kính.

Bà lại hỏi tiếp:

– Và khi vị trời Sakka đi rồi, những vị đến sau đã dùng hào quang làm sáng cả căn phòng này là ai vậy?

– Thưa tín nữ thân mẫu. Ðó là các vị Giáo chủ, những Ðại Phạm Thiên, những Thiên Sư của chính thân mẫu đấy.

– Vậy thì ông là người cao cả nhất. Này ông con quí mến của mẹ, ông còn cao quí hơn những Ðại Phạm Thiên mà xưa nay thân mẫu hằng ngưỡng mộ ư?

– Vâng, thưa thân mẫu. Vào ngày đức Bổn Sư ra đời, thân mẫu nào biết rằng chính bốn vị Ðại Phạm Thiên ấy đã đón rước Ngài trong một vuông lụa đầy hào quang vàng chói.

Khi nghe vậy, mẹ Ngài bèn nghĩ: “Nếu oai lực của người con trai mình như thế thì oai lực vô biên của đấng Bổn Sư ông còn to lớn biết dường nào?”.

Trong khi bà đang phân xét như vậy, bất chợt một sự kính ngưỡng nơi Tam Bảo bỗng phát sinh và phỉ lạc tràn ngập cả tâm tư bà.

Ðức Trưởng lão quán thấy biết rằng sự thỏa thích và niềm tin đã bừng lên trong tâm hồn người mẹ rồi, đây chính là lúc mà Ngài phải thuyết pháp để báo ơn sinh thành dưỡng dục. Ngài hiền hòa hỏi:

– Này thân mẫu tín nữ. Thân mẫu đang suy nghĩ gì vậy?

Bà trả lời:

– Thân mẫu đang suy nghĩ: “Nếu con trai của mình mà có phước hạnh như thế thì ân đức của Phật Thích Ca Cồ Ðàm còn to lớn biết là dường nào?”.

Ðại Ðức Sàrìputta liền tiếp lời:

– Ngay giây phút đức Bổn Sư ra đời, ngay giờ khắc Ngài chứng được quả giải thoát vĩ đại và sau khi đạt đến sự Toàn Giác rồi, Ngài bắt đầu Chuyển pháp luân. Trong ba lần này có hàng vạn hiện tượng cõi đời phải rung chuyển và chấn động. Không có một đấng nào có phước đức ngang hàng với đức Phật. Không có một đấng nào có sự an trụ, có trí tuệ, có hạnh giải thoát, có một độ thuần thục và một sức nhận thức pháp Giải Thoát cao hơn Phật.

Tiếp theo, Ðại Ðức Sàrìputta liền cắt nghĩa cho bà một cách chi tiết những lời tán dương vừa rồi. Chẳng hạn như Ngài nói:

– Thực ra, chỉ có đức Thế Tôn mới là Ðấng Ðại Phúc hơn hết. Vì Ngài đã tròn đủ mười ân đức như: Ứng Cúng (Araham), Chánh Biến Tri (Sam màsambuddho), Minh Hạnh Túc (Vijjàcaranasam panno), Thiện Tuệ (Sugato), Thế Gian Giải (Lokavidù), Vô Thượng Sĩ (Anuttaro), Ðiều Ngự Trượng Phu (Purisadammasàrathi), Thiên Nhơn Sư (Satthàdeva-manussànaô), Phật (Buddho), Thế Tôn (Bhagavà)

Cứ như thế Ngài đã lần lượt làm cho bà thấu hiểu hết Ân đức Phật đến Ân đức Pháp, hết Ân đức Pháp đến Ân Ðức Tăng.

Khi người con cao thượng của bà sắp chấm dứt bài pháp, cụ bà Bà-la-môn tín nữ kia liền đắc quả Nhập Lưu (Tu Ðà Hườn) một cách không dư sót. Và bà nói:

– Này người con đáng kính của mẹ! Này Ngài Upatissa, tại sao trước đây ông không làm như thế để dắt dẫn mẹ? Tại sao trong suốt những năm qua ông không ban bố cho mẹ một sự hiểu biết bất tử này?

Ðức Trưởng lão bèn nghĩ: “Giờ thì ta đã đền đáp xong công ơn sinh thành của người mẹ ta rồi, người thiếu phụ Bà-la-môn mà trước đây dân làng ai cũng tôn kính và đều gọi là Rùpa Sàri. Chính nhờ bà, ta đã nên người. Pháp bảo mà ta vừa giảng cho bà thế là đủ”.

Ðoạn Ngài yêu cầu bà để Ngài nằm yên trong chốc lát.

Khi bà đã rút lui, Ngài bèn hỏi Ðại Ðức Cunda:

– Này Pháp đệ! Không biết bây giờ là canh mấy rồi nhỉ?

– Bạch Ngài! Trời chỉ mới vừa rạng đông.

Ðức Trưởng lão liền yêu cầu:

– Xin Pháp đệ hãy bảo chư Tỳ-khưu tập hợp lại.

Và lúc chư Tỳ-khưu tề tựu đông đủ, Ngài bèn nói với Ðại Ðức Cunda rằng:

– Hãy khiêng tôi đem đặt vào phòng khách.

Ðại Ðức Cunda liền vâng lời và làm theo ý muốn của Ngài.

An vị xong, đức Trưởng lão bèn tuyên bố với chư Tỳ-khưu:

– Này các huynh đệ. Trong bốn bốn năm, bần đạo đã cùng sống và du hành truyền đạo với các vị, nếu bần đạo có một hành vi hay lời nói nào không vừa lòng, xin chư huynh đệ bỏ lỗi cho tôi nhé.

Tất cả đồng trả lời: – “Bạch Ngài, dù một sự mích lòng nhỏ nhất đi nữa cũng chẳng bao giờ phát sanh giữa Ngài với chúng tôi, ai đã noi gương Ngài, theo chân Ngài dù Ngài khuất bóng đi nữa, họ cũng còn ghi khắc hình ảnh của Ngài trong tâm khảm và như vậy Bạch Ngài: Nếu trước đây chúng tôi có lỗi lầm gì xin Ngài từ bi tha thứ! “.

Nói xong đức Trưởng lão liền góp nhặt những y phục xung quanh Ngài, rồi tự mình phủ lên mặt, nằm xuống nghiêng mình về phía phải. Sau đó, ngay khi đức Bổn Sư đang sắp sửa nhập vào vô dư Niết bàn (Maha parinibbana) thì Ngài bèn nhập vào trong cửu phẩm đại định theo cách tiến và thoái rồi nhiếp lại từ nhất thiền trở lên cho tới đệ tứ đại định. Ngay giây phút Ngài đạt đến mức định ấy, thì vừng thái dương cũng vừa ló dạng ở chân trời và Ngài đã hoàn toàn nhập diệt vào Niết bàn vĩnh cửu nơi không còn dư sót bất cứ một sự dính mắc đau khổ nào.

Hôm ấy là ngày trăng tròn tháng Kattika theo dương lịch là ngày 15 tháng 10.

Cụ Bà Bà-la-môn khi chưa hay Ngài đã nhập diệt suy nghĩ rằng: Không biết bịnh tình của ông con ta ra làm sao? Bà ngồi dậy đi vào trong phòng của đức Trưởng lão đặt tay lên hai chân của Ngài. Lúc đó Bà mới biết rằng Ngài đã nhập diệt. Bà liền quì xuống dưới chân Ngài than khóc: “Ôi người con trai yêu quí của mẹ! Trước đây mẹ đã không biết được phúc đức vô lượng của người. Vì thế mẹ không tạo được của cải bất diệt trong nhà này, và mẹ đã không biết nuôi nấng, giúp đỡ đến hàng trăm vị Sa-môn chân chánh như giờ đây. Mẹ không tập được hạnh quí không xây cất được tịnh xá.

Bà cứ than thở như vậy cho đến khi mặt trời mọc. Lúc vầng thái duơng vừa soi rõ cả không gian, bà mới cho mời những thợ chạm danh tiếng và ra lệnh mở kho của báu để lấy ra những khối vàng nặng nhất hầu chi dụng, và chế tạo đồ trần thiết trong tang lễ.

Sau đó là những cột phướn và những cửa tam quan được dựng lên ở trung tâm ngôi làng. Nơi ấy, vị tín nữ đã cho cất một ngôi nhà tế toàn bằng các loại gỗ quí. Ở xung quanh ngôi nhà tế, bà cho kiến tạo một số tiểu đình giao thông nhau bằng những hành lang rộng rãi, có mái che, và hai bên có những bao lơn bắt dính vào nhiều cây cột khảm vàng thật đẹp.

Ðoạn cuộc tế lễ bắt đầu. Người tham dự chẳng những rất đông họ hàng dân chúng mà còn có cả các hàng chư Thiên lẫn lộn. Khi số người vĩ đại ấy đã lễ bái theo nghi thức đủ một tuần lễ, họ bèn dựng lên một lò thiêu cao trọng bằng tất cả các loại trầm có mùi thơm quí nhất. Nhục thể của Ðại Ðức Sàrìputta được đặt lên giàn thiêu ấy và châm lửa đốt bằng những bó mồi do những rễ cây Usiva làm ra. Suốt đêm hỏa thiêu ấy, tất cả mọi người tham dự đều được nghe chư Tăng thay phiên nhau thuyết pháp. Ðức Trưởng lão Anuruddha cũng có mặt trong đêm lễ hỏa thiêu này. Ngài chính là người đã đích thân dùng nước hoa dập tắt ngọn lửa sau cùng. Ðại Ðức Cunda bèn góp nhặt những di hài còn lại và đặt vào trong một vuông vải lọc.

Trong khi làm như vậy, Ðại Ðức Cunda lại nghĩ “Ta không nên lưu lại tại đây lâu vì lúc này là thời gian Ðức Bổn Sư cũng chuẩn bị Nhập Diệt. Ta phải đi báo cáo cho đấng Toàn Giác biết sự nhập diệt của Ðại sư huynh ta, vị đệ tử mà Ngài gọi cái tên Sàrìputta như một người thông hiểu vạn pháp”.

Liền đó, Ngài lấy vuông vải lọc chứa đầy di hài Thánh thể, đồng thời với những di vật bình bát và y phục của Ðại Ðức Sàrìputta, rồi đến thành Sàvatthì (Xá Vệ). Trên đường đi, chỉ có ban đêm là Ðại Ðức mới dừng chân tạm nghỉ.

Trên đây là những mẫu chuyện đã được ghi lại trong chú giải kinh Cunda, thuộc Satipatthàna SAMYUTTA. Kinh này còn được bổ khuyết do những song kệ trong chú giải bộ Mahà Parinibbàna Sutta. Sự tự thuật còn giữ lại trong kinh Cunda được trích dịch như sau:

 

KINH CUNDA (SATIPATTHÀNA SAMYUTTA 23)

Có một lần Ðức Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên tịnh xá của ông Trưởng giả Cấp Cô Ðộc (Anàthapindika) trong thành Xá Vệ (Sàvathì).

Khi ấy Ðại Ðức Sàrìputta lại ngụ trong làng Nàlaka, xứ Magadha (Ma Kiệt Ðà) và đang bị bịnh hoạn dày vò thân thể trầm trọng. Vị Sư đệ tên Cunda là người đã hầu cận Ngài.

Sau khi Ðại Ðức Sàrìputta tịch diệt, ông Cunda vội nhặt tất cả những di vật như bình bát, y phục của Ðại Ðức Sàrìputta đem đến thành Sàvatthì, vào tận trong rừng Jeta công viên của ông, bá hộ Cấp Cô Ðộc. Khi đến nơi, ông đi thẳng đến Ðại Ðức Ànanda để thông báo trước tiên, và lúc chào kính xong, ông ta bèn bạch với Ðại Ðức Ànanda rằng:

– Bạch Ðại Ðức . Trưởng lão Sàrìputta đã nhập diệt rồi, và đây là bình bát và y phục của Ngài để lại.

Ðại Ðức Ànanda liền buồn bã đề nghị:

– Này đạo hữu Cunda! Về việc này chúng ta nên đến yết kiến đức Thế Tôn. Biết đâu khi hầu Ngài, chúng ta sẽ chẳng được nghe đức Phật dạy dỗ nhiều điều hữu ích?

Ðại Ðức Cunda lập tức tán đồng: “Vâng Bạch Ngài!”.

Sau đó họ cùng đến ra mắt đức Thế Tôn. Khi đã đảnh lễ đức Bổn Sư xong, họ ngồi sang một bên và Ðại Ðức Ànanda liền bạch với đức Thế Tôn rằng:

– Bạch đức Bổn Sư. Ðạo hữu Cunda thuật với đệ tử là Trưởng lão Sàrìputta đã nhập diệt và đây chính là bình bát và y phục của Ngài.

Rồi Ðại Ðức Ànanda buồn bã tiếp:

– Ôi đức Thế Tôn! Khi đệ tử nghe tin Ðại Ðức Sàrìputta đã nhập diệt, thân thể đệ tử trở nên bàng hoàng yếu ớt. Mọi vật chung quanh trở nên mờ hẳn đi, và đối với đệ tử chúng không còn là những vật hữu dụng nữa.

Ðức Phật dạy: “Này Ànanda!. Sao lại như vậy? Khi Sàrìputta nhập diệt, ông ấy đã lấy đi của ông phần phước đức hay phần an trụ nào không? Ông ấy đã chia của ông phần trí tuệ hay phần giải thoát nào không?

– Bạch Ðức Thế Tôn, không phải như thế. Khi Ðại Ðức Sàrìputta nhập diệt, Ngài không lấy của đệ tử một phần phước đức, an trụ trí tuệ hoặc pháp giải thoát nào cả. Ngài cũng không lấy của đệ tử một phần hiểu biết và nhận rõ con đường giải thoát nữa. Nhưng bạch Phật Ðại Ðức Sàrìputta là một vị cố vấn trí tuệ hoàn toàn của đệ tử. Ðại Ðức đã giảng giải Pháp bảo một cách trọn vẹn, chính Ngài là đấng dẫn dắt các hàng Tỳ-khưu lên Thánh đạo. Chúng đệ tử cũng còn nhớ rõ sự huấn pháp của Ðại Ðức nó linh hoạt, hữu lạc và thực dụng làm sao.

– Này Ànanda!. Trước đây Như Lai chẳng dạy cho ông rồi hay sao? Tất cả bản chất của mọi vật gần gũi và yêu mến đối với ta, trước sau gì cũng phải chịu một sự chia lìa, và do đó đệ tử của Như Lai phải quán tâm về pháp ấy chứ? Những hình thức nào được sinh ra, được lớn lên, được đoàn tụ, hẳn đều là nguyên nhân của sự tan rã, sự bại hoại. Những trạng thái đó đến với ta không có báo trước như thế nào thì cũng sẽ bỏ đi, không cần ta như thế ấy!

– Thực ra, ta muốn bám víu cũng không bao giờ được. Này Ànanda!. Ví như một cành cây đến lúc không chịu nổi sức nặng của nó, tự nó phải gãy đổ, dù cho thân cây có cứng rắn đến đâu. Sàrìputta cũng vậy, ông sẽ nhập diệt, tức là ông đã rời khỏi cộng đồng Tăng lữ dù cho cộng đồng ấy có vĩ đại, có mạnh mẽ đến đâu. Này Ànanda!. Như Lai xin lập lại cho ông ghi nhớ rằng: Mọi pháp hành thực tiễn hay không thực tiễn, mọi hình thức vi tế hay thể khối sinh có mặt trên cõi đời này, tập hợp, phát triển rồi thì phải tiêu hoại. Chúng đã đến như thế nào thì sẽ đi như thế đó. Ðây chính là pháp Vô Thường vậy!

– Này Ànanda!. Do đó ông hãy tạo cho mình một hòn đảo rắn chắc để khỏi chìm đắm trong bể khổ. Ông nên từ bỏ những trạng vật vô thường. Ngay cả thể xác của ông, ông cũng nên cảnh giác để diệt trừ những pháp dễ duôi trên con đường xây đời vĩnh cửu. Phật giáo sẽ là hòn đảo rắn chắc, sẽ là động lực thoát khỏi sự vô thường, sẽ là bước chân liên tục để đưa ông vào cảnh giới bất tử.

Chú giải còn ghi rõ một đoạn thuật sự như thế này:

Khi ấy đức Bổn Sư đưa thẳng cánh tay của Ngài để nhận lấy vuông vải lọc chứa di hài của Ðại Ðức Sàrìputta do Tỳ-khưu Cunda đặt vào tận bàn tay của Ngài và Nói:

– Này chư Tỳ-khưu. Ðây là những di vật có màu sắc ngọc trai của một Tỳ-khưu mà trước đây không lâu đã xin phép Như Lai để nhập diệt. Ông là người đã tu tập để hoàn toàn trong một thời gian vô lượng và trải qua hằng trăm ngàn đời kiếp. Công đức ấy đã tạo ông thành một bậc Sa-môn vô cùng xứng đáng. Ông là người đã đạt được quả vị gần nhất của Như Lai. Và chỉ có ông mới được như thế. Trừ Như Lai ra không ai có thể bì kịp trí tuệ của ông, vì trí tuệ ấy đã được tạo ra do công trình hàng vạn kiếp. Sự vĩ đại của trí tuệ ông có thể ví như ánh sáng mặt trời, lúc nào cũng nhanh chóng tinh anh và tiềm tàng vô cùng tận. Vị Tỳ-khưu ấy bao giờ cũng tri túc, không ham thích dù chỉ là sự ham thích của những bậc Thánh nhân, không ưa tạo hợp, đầy nghị lực và là người dẫn dắt khả kính của nhiều bạn đồng đạo, bởi luôn luôn biết tẩy trừ những điều tội lỗi của kẻ khác. Ông là người đã đi vào trong cuộc sống không gia đình, chối bỏ những của cải ham chuộng của thế gian mà ông có thể hưởng được như một người thừa tự. Gia tài bá hộ của cha mẹ ông không phải chỉ to lớn gần đây, mà thực sự đã giàu có qua hằng năm trăm đời. Ông chính là một Sa-môn đích thực và trong vô lượng kiếp qua ông đã thực hành pháp Ba la mật của Như Lai. Ông đã song hành và kiên nhẫn như quả đất. Với ông, tất cả đều vô hại, nhưng với ác pháp ông ví như một con vật chúa đoàn có đôi sừng bén nhọn, sẵn sàng ngăn chận những kẻ xấu có thể gây nguy hại cho đồng loại của mình. Ôi cao quí thay! Một Tỳ-khưu trong Phật giáo bao giờ cũng có một tư tưởng khiêm nhượng, người con trai cứu thế chính là ông vậy.

– Này chư Tỳ-khưu! Các ông hãy xem đây! Di hài của Ðại Ðức Sàrìputta, một vị Thánh Tăng đầy trí tuệ, đầy quảng đại, trong sáng, linh hoạt, sắc bén và tiềm tàng. Sự tri túc, ít ham muốn của ông với đức tính thích ẩn dật, không ưa động hợp và đầy nghị lực đã làm cho ông trở nên một vị cố vấn lỗi lạc đối với những đồng đạo, khi họ còn tiến bước trên con đường giải thoát.

Tiếp theo, đức Phật còn đọc những câu kệ sau đây để ca ngợi vị đệ tử vĩ đại của Ngài:

Trong một trăm ngàn kiếp sống qua, người đã năm lần thoát ly xiềng xích gia đình đem thân hành đạo thiện. Người luôn luôn giữ tâm mát mẻ đối với những kẻ xung quanh, tình thương bao giờ cũng tỏa rộng. Căn thức được kềm chế rồi thì linh hồn trở nên cao thượng và ngày nay cũng như mãi mãi về sau này đều được mọi người tôn kính. Dù ông Sàrìputta đã nhập diệt, tấm gương sáng chói biểu lộ sức mạnh kiên nhẫn của ông, người sau chỉ còn biết ví như quả đất. Trong trí tuệ của ông chỉ có một con đường duy nhất, con đường phát tiết lòng từ bi , thiện cảm và mát mẻ một cách êm ả. Quả địa cầu này đã bền vững song song với ông giờ đây vẫn còn nâng đỡ con người đáng tôn kính ấy. Chư Tỳ-khưu hãy hướng về con đường Sàrìputta mà đi, mặc dù giờ đây ông đã nhập diệt.

– Người ấy thuở thiếu thời đã xa hẳn gia đình chỉ biết giữ trong tâm hồn mình một sự ôn hòa khiêm nhượng, tìm kiếm một thành trì kiên cố và bình thản bước mãi trên một lộ trình duy nhất. Sống cuộc đời khất sĩ, từ nơi này đến nơi khác, không màng danh lợi, không phải để cái tên Sàrìputta được người sau tôn thờ, mà là để soi sáng đồng loại đang vướng mắc trong vòng đau khổ. Nếu có ai mà suốt đời dù sống giữa đô thị náo nhiệt hay trong rừng sâu thăm thẳm cũng chẳng làm phương hại đến một chúng sanh thì người đó chính là Sàrìputta. Chư Phật đã ví ông như một con vật chúa đoàn uy vũ, suốt đời chỉ biết thương hàng đồng loại. Người đã thắng tất cả, hoàn toàn làm chủ lấy mình dù đã tịch diệt, người sau có tôn thờ đến đâu cũng không xứng đáng được.

Sau khi đức Thế Tôn đã ca ngợi hạnh phúc vô lượng của Ðại Ðức Sàrìputta như thế Ngài bèn cho xây một Bảo Tháp để tôn thờ di hài ấy.

Tiếp đó Phật ngỏ ý với Ðại Ðức Ànanda. Ngài muốn đi đến thành Ràjagaha (Vương Xá).

Ðại Ðức Ànanda bèn thông báo cho chư Tỳ-khưu hay để chuẩn bị hành trình với đức Thế Tôn. Khi đức Phật vừa đến nơi thì Mahà Moggallàna Trưởng lão cũng đã nhập diệt.

Ðức Phật, một lần nữa, lại nhận những di hài như trước và dạy các hàng Phật tử lập Bảo Tháp phụng thờ. Xong xuôi Ngài khởi hành từ thành Ràjagaha, qua nhiều đoạn đường, đi về hướng sông Ganga để đến xứ Ukkacela. Nơi đó Phật dẫn chư Tỳ-khưu đến bờ sông Ganga để thuyết một bài pháp nói về sự an nghỉ Niết Bàn của hai Ðại Ðức Sàrìputta và Mahà Moggallàna mà chư Thánh Tăng sau này gọi là Ukkacela Sutta.

KINH UKKACELA

Sau khi hai Trưởng lão Sàrìputta và Mahà Moggallàna nhập diệt chẳng bao lâu thì có một lần khi đức Thế Tôn đang ngụ tại xứ Vajji, trong vùng Ukkacela, gần bờ sông Ganga (Hằng Hà). Nhân vào lúc đức Phật vừa an tọa ngoài trời và có chư Tỳ-khưu ngồi xung quanh, đức Thế Tôn bèn bảo các đệ tử im lặng rồi thuyết rằng:

– Này các vị Tỳ-khưu! Sự hội họp này ngày hôm nay dường như có vẻ trống rỗng, vì hiện tại Sàrìputta và Mahà Moggallàna đã nhập diệt rồi. Không phải Như Lai cho đó là một sự trống rỗng thường tình vì dù sao cũng có chư Tăng hội họp nơi đây. Cũng chẳng phải Như Lai đang thương tiếc Sàrìputta và Mahà Moggallàna, hay nghĩ đến những nơi nào mà hai Ðại đệ tử ấy đã ngụ mà Như Lai cảm thấy trống rỗng bởi lòng từ mẫn đối với chư vị đó. Hiện tại xác thân Như Lai cũng yếu chẳng bao lâu sẽ nhập Niết Bàn. Như Lai làm sao đủ sức khỏe để dắt dẫn toàn thể Tăng chúng đoạt được mục đích mong muốn? Phải chi Sàrìputta và Mahà Moggallàna còn hiện tiền thì con đường tiến tới giải thoát của chư đệ tử có thể đảm bảo hơn.

Trong quá khứ, những bậc Ðộc Giác, những bậc Toàn Giác và những đấng Thế Tôn cũng đều có những cặp đệ tử ưu tú như Như Lai đã có Sàrìputta và Mahà Moggallàna vậy. Trong tương lai chư Phật cũng sẽ có như thế, như hiện tại Như Lai đã có hai vị đệ tử ưu tú vừa nhập diệt. Ðó là những công đức vô lượng, những nhân vật tuyệt diệu nhất. Này chư Tỳ-khưu! Các ông nên tưởng nhớ đến những Ðại đệ tử Phật như thế, vì họ đã song hành và hòa hợp trong Ba la mật pháp của vị Bổn Sư. Họ có thể thay thế đức Thế Tôn để giáo huấn các hàng đệ tử một cách đúng đắn. Ðối với toàn thể tứ chúng họ rất yêu mến và cũng được kính mến tin tưởng trở lại bởi mọi người. Này chư Tỳ-khưu, họ là hiện thân của những phúc đức kỳ lạ, là hội tụ của những tâm trí cao thượng nhất. Các ông hãy niệm tưởng đến các bậc hoàn toàn như thế. Và khi một đôi Ðại đệ tử thuộc hạng này đã nhập diệt, đối với một đấng Toàn Giác, không có vấn đề âu sầu than tiếc.

– Những hình thức nào được sinh ra, trưởng thành bởi cấu hợp chỉ là những sự biểu thị cho giai đoạn tan vỡ. Nó đã bắt đầu như thế nào thì nó cũng sẽ kết thúc như thế ấy, đây là một định luật không ai có khả năng biến đổi được.

– Này chư Tỳ-khưu! Do dó các ông hãy tự tạo cho mình một hòn đảo, để tránh làn sóng sinh tử luân hồi. Hãy tập từ bỏ cái bản ngã vô thực của mình đi, tẩy trừ sự dễ duôi, phải đem giáo lý giải thoát mà xây dựng cho đời mình.

Chúng tôi muốn kết thúc CUỘC ÐỜI CỦA ÐẠI ÐỨC Sàrìputta (Hay XÁ LỢI PHẤT)… Bằng những lời dạy trên đây của đức Phật. Những giáo huấn này vẫn còn âm vang mãi cho đến ngày nay.

Ðại Ðức Sàrìputta không phải chỉ được chính Ðức Phật khen ngợi, không phải chỉ được toàn thể Thánh Tăng thời Phật còn tại tiền tán dương, mà ngày nay Ngài cũng vẫn được tất cả Phật tử trên năm châu bốn biển tôn kính, xem Ngài như là một Ðại Bác Học trong kho tàng Phật giáo.

Ðại Ðức Sàrìputta tịch vào ngày trăng tròn tháng Kattilà, tức nhằm ngày Rằm tháng mười dương lịch. Còn Ðại Ðức Mahà Moggallàna nhập diệt sau đó nửa tháng, vào một ngày Uposattha có trăng non. (Theo chú giải Kinh Ukkacela). Rồi nửa năm sau thì đến ngày nhập Niết Bàn theo thông lệ của chư Phật quá khứ.

Nếu kể luôn sự nhập Niết Bàn của đức Phật, thì đây là một chuỗi tịch diệt vô cùng lịch sử của ban nhân vật vĩ đại nhất thế gian.

Khoảng cách từ Ðại Ðức Sàrìputta viên tịch đến khi đức Thế Tôn nhập Niết Bàn chỉ có sáu tháng. Trong vòng nửa năm trời đó, chư Thiên và nhân loại đã trải qua một thời gian đầy quả phúc lẫn mất mát:

Ðầy quả phúc vì trước khi nhắm mắt, các Ngài dù Thinh Văn Giác hay Toàn Giác, đã đem tất cả ân đức của mình ban bố hết cho thế gian, bởi các Ngài không bao giờ mang quả phúc vào trong cõi Vô Sinh Bất Diệt.

Mất mát vì nhân loại khi đã vắng bóng các Ngài rồi thì muôn ngàn kiếp sống luân hồi về sau mỗi ngày một tiến sâu vào cảnh hỗn mang đen tối.

Một điều đáng cho chúng ta lấy làm thắc mắc là tại sao các Ngài không nhập diệt bằng một lịch trình xa hơn, nghĩa là cách nhau đôi ba năm nay càng lâu càng tốt, để cho chúng sinh mê muội được nhờ. Ðàng này các Ngài đã lần lượt ra đi chỉ trong vòng sáu tháng?

Sự giải đáp chỉ có thể tìm thấy trong Kinh Milanda Panhà (Mi Lan Ðà Vấn Ðạo): Theo đó, đức Na Tiên Tỳ-khưu đã giảng giải cho vua Mi Lan Ðà nghe rằng:

– Tâu đại vương! Trong nhiều trăm ngàn kiếp qua, đức Trưởng lão Sàrìputta đã từng làm thân phụ của vị Bồ Tát. Có khi là ông nội, có khi làm chú bác, anh em, con cháu, hoặc bạn bè của chính Bồ Tát tiền thân Phật Thích Ca.

Do vòng nhân duyên tiến hóa ấy, liên kết họ cùng thời từ nhiều kiếp trước. Cho nên đến kiếp sau cùng, sự gặp lại của ba vị chỉ là giai đoạn viên mãn tự nhiên, và tuổi thọ nhục thân của họ phải suýt soát nhau. Còn cái vòng sinh tử trước đó chính là những nấc thang để nâng họ lên cõi bất tử.

Trong kiếp sống sau cùng, các Ngài chỉ còn một việc phải làm là thắp sáng ngọn đuốc giải thoát một cách vinh quang để chiếu sáng cho cõi đời.

Sức sáng ấy bây giờ và mãi mãi về sau vẫn còn tiếp tục.

-ooOoo-

 

 

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app