4.2.2- 10 phước-thiện (puññakriyāvatthu)(1)

Dục-giới thiện-nghiệp gọi là đại-thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm tạo 10 phước- thiện (puññakriyāvatthu) là:

1- Dānakusala: phước-thiện bố-thí.

2- Sīlakusala: phước-thiện giữ giới.

3-  Bhāvanā kusala: phước-thiện hành-thiền.

4-  Apaccāyanakusala: phước-thiện cung-kính.

5-  Veyyāvaccakusala: phước-thiện hỗ trợ trong mọi việc thiện.

6-  Pattidānakusala: phước-thiện hồi hướng phần phước-thiện.

7-  Pattānumodanākusala: phước-thiện hoan hỷ phần phước-thiện.

8-  Dhammassavanakusala: Phước-thiện nghe pháp.

9- Dhammadesanākusala: phước-thiện thuyết pháp.

10- Diṭṭhujukammakusala: phước-thiện chánh-kiến.

10  phước-thiện được gom lại thành 3 nhóm:

– Nhóm phước-thiện bố-thí.

–  Nhóm phước-thiện giữ giới.

–  Nhóm phước-thiện hành thiền.

1-  Nhóm phước-thiện bố-thí gồm có 3 pháp:

–  Phước-thiện bố-thí.

–  Phước-thiện hồi-hướng.

–  Phước-thiện hoan-hỷ.

2-  Nhóm phước-thiện giữ giới gồm có 3 pháp:

– Phước-thiện giữ-giới.

–  Phước-thiện cung-kính.

–  Phước-thiện hỗ trợ trong mọi việc thiện.

3-  Nhóm phước-thiện hành-thiền gồm có 4 pháp:

–  Phước-thiện hành-thiền.

–  Phước-thiện nghe pháp.

–  Phước-thiện thuyết-pháp.

–  Phước-thiện chánh-kiến.

Tuy nhiên, phước-thiện chánh-kiến đó là kammas- sakatāsammādiṭṭhi:  chánh-kiến  hiểu  biết  đúng  về  nghiệp  là của riêng mình là rất cần thiết cho cả 3 nhóm, để hỗ trợ tạo mỗi phước-thiện nào với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, có đủ 3  thiện-nhân là vô-tham, vô-sân, vô-si (trí-tuệ), để cho phước-thiện ấy trở thành tam-nhân đại-thiện-nghiệp.

Phước-thiện và quả của 10 phước-thiện

Đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm tạo 10 phước- thiện (puññakriyāvatthu).

Đại-thiện-tâm (mahākusalacitta) có 8 tâm:

1-   Đại-thiện-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

2-  Đại-thiện-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

3-   Đại-thiện-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

4-   Đại-thiện-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

5-   Đại-thiện-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

6-  Đại-thiện-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, với trí- tuệ, cần tác-động.

7-   Đại-thiện-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

8-   Đại-thiện-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

8 đại-thiện-tâm này phân chia theo trí-tuệ có 2 loại:

– 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ.

– 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ.

10 phước-thiện mà mỗi phước-thiện được thành-tựu đều trải qua 3 thời-kỳ tác-ý:

1- Pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại- thiện-tâm phát sinh trước khi tạo phước-thiện, không có thời gian nhất định.

2- Muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại- thiện-tâm phát sinh khi đang tạo phước-thiện ấy.

3- Aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại- thiện-tâm phát sinh sau khi đã tạo phước-thiện xong, thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí trải qua thời gian nhiều năm sau.

Trong 3 thời-kỳ tác-ý này, mỗi thời-kỳ tác-ý có vai trò quan trọng để trở thành đại-thiện-nghiệp như sau:

Năng lực của muñcacetanā

Thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm phát sinh khi đang tạo phước-thiện nào, phước-thiện ấy trở thành tam-nhân đại-thiện-nghiệp hoặc nhị-nhân đại-thiện-nghiệp như sau:

–   Người thiện nào nếu có muñcacetanā tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ kammas- sakatāñāṇa  khi  đang  tạo  phước-thiện  nào  có  diṭṭhi- jukamma: phước-thiện chánh-kiến hỗ trợ phước-thiện ấy, thì người thiện ấy tạo phước-thiện ấy với đại-thiện- tâm hợp với trí-tuệ có đủ 3 thiện-nhân là vô-tham, vô- sân, vô-si, nên phước-thiện ấy trở thành tam-nhân đại- thiện-nghiệp (tihetukakusalakamma).

–   Người thiện nào nếu có muñcacetanā tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ kammassakatāñāṇa khi đang tạo phước-thiện nào không có diṭṭhijukamma: phước-thiện chánh-kiến hỗ trợ phước- thiện ấy, thì người thiện ấy tạo phước-thiện ấy với đại- thiện-tâm không hợp với trí-tuệ chỉ có 2 thiện-nhân là vô-tham và vô-sân, không có vô-si, nên phước-thiện ấy trở thành nhị-nhân đại-thiện-nghiệp (dvihetukakusala- kamma).

Tam-nhân đại-thiện-nghiệp và nhị-nhân đại-thiện- nghiệp phân-loại theo năng lực của 2 thời-kỳ tác-ý: thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại- thiện-tâm phát sinh trước khi tạo phước-thiện nào và thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại- thiện-tâm phát sinh sau khi đã tạo phước-thiện nào  xong, mỗi loại đại-thiện-nghiệp có 2 bậc:

–  Ukkaṭṭhakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc cao.

–  Omakakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc thấp.

1-   Ukkaṭṭhakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc cao như thế nào?

Người thiện nào tạo phước-thiện bố-thí nào hoặc phước-thiện giữ-giới nào, hoặc phước-thiện hành-thiền nào,… nếu thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch trước khi tạo phước-thiện ấy, không có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn và nhất là thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch, sau khi đã tạo phước-thiện nào, không có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn, thì người ấy tạo phước-thiện bố-thí ấy hoặc phước- thiện giữ-giới ấy, hoặc phước-thiện hành-thiền ấy trở thành    tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma:    tam-nhân    đại- thiện-nghiệp   bậc   cao,   và   dvihetuka-ukkaṭṭhakusala- kamma: nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao.

2- Omakakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc thấp như thế nào?

Người thiện nào tạo phước-thiện bố-thí nào hoặc phước-thiện giữ-giới nào, hoặc phước-thiện hành-thiền nào,… nếu thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không trong sạch trước khi tạo phước- thiện ấy, bởi vì có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn, và nhất là thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không trong sạch sau khi đã tạo phước-thiện nào, bởi vì có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn, nên làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, thì người ấy tạo phước-thiện bố-thí ấy hoặc phước-thiện giữ-giới ấy, hoặc phước-thiện hành-thiền ấy trở thành tihetuka-omakakusalakamma: tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp và dvihetuka-omakakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện nghiệp bậc thấp.

Năng lực của aparacetanā

Trong 2 thời-kỳ tác-ý: thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trước khi tạo phước- thiện nào và thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện nào theo thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm, để quyết định phước-thiện ấy trở thành tam-nhân đại- thiện-nghiệp bậc cao hoặc bậc thấp, nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao hoặc bậc thấp, thì thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm phát sinh sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi có vai trò quan trọng hơn là thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm phát sinh trước khi tạo phước-thiện ấy,  bởi vì chưa thành-tựu phước-thiện ấy.

Thật vậy, dù cho thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không trong sạch trước khi tạo phước-thiện nào, bởi vì có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, nhưng nếu thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, theo thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm với đại-thiện-tâm trong sạch hoan hỷ trong phước-thiện ấy, không có tham-ái, ngã-mạn, tà- kiến phát sinh xen lẫn, không làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, thì phước-thiện ấy vẫn trở thành ukkaṭṭhakusala- kamma: đại-thiện-nghiệp bậc cao.

Dù cho thời-kỳ pubbacetanā tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch trước khi tạo phước-thiện ấy, không có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn, nhưng nếu thời-kỳ aparacetanā tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không trong sạch sau khi đã tạo phước-thiện bố-thí ấy xong rồi, theo thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm với đại-thiện-tâm không trong sạch, bởi vì có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, thì phước-thiện ấy, trở thành omakakusalakamma: đại- thiện-nghiệp bậc thấp.

Cho nên, aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, theo thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm có tầm quan trọng quyết-định đại-thiện- nghiệp  ấy  trở  thành  ukkaṭṭhakusalakamma:  đại-thiện- nghiệp bậc cao hoặc omakakusalakamma: đại-thiện- nghiệp bậc thấp.

Phân loại đại-thiện-nghiệp theo ukkaṭṭhakusalakamma và omakakusalakamma

Phân loại tihetukakusalakamma và dvihetukakusala- kamma  theo  ukkaṭṭhakusalakamma  và  omakakusala- kamma có 4 bậc như sau:

*  Tihetukakusalakamma có 2 bậc:

1-  Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao.

2-  Tihetuka-omakakusalakamma: tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp.

*  Dvihetukakusalakamma có 2 bậc:

1-  Dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện nghiệp bậc cao,

2- Dvihetuka-omakakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp.

Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, tam-nhân đại- thiện-nghiệp bậc thấp, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp, mỗi đại-thiện- nghiệp có tầm quan trọng cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) làm người hoặc làm vị thiên- nam,vị thiên-nữ trên 6 cõi trời dục-giới và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại của người hoặc của chư vị thiên-nam, vị thiên nữ.

Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp Nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp

Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp và nhị- nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp gồm có 4 bậc như sau:

1-   Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao.

2-   Tihetuka-omakakusalakamma: tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp.

3-   Dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: nhị-nhân đại- thiện-nghiệp bậc cao.

4-   Dvihetuka-omakakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp.

Thời-kỳ paṭisandhikāla và thời-kỳ pavattikāla

Đại-thiện-nghiệp có 4 loại là tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao và tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao và nhị-nhân đại- thiện-nghiệp bậc thấp, mỗi bậc đại-thiện-nghiệp có cơ- hội cho quả trong 2 thời-kỳ:

–  Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).

–  Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại.

Đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái- sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đầu thai làm người, có 3 hạng người trong đời này, hoặc hóa-sinh làm vị thiên- nam hoặc vị thiên-nữ trên 6 cõi trời dục-giới, cũng có 3 hạng chư-thiên.

Mỗi hạng người, mỗi hạng thiên-nam, hạng thiên-nữ có khả năng khác nhau do quả của mỗi đại-thiện-nghiệp như sau:

1-  Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma:  tam-nhân  đại- thiện-nghiệp bậc cao:

Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma    là    tam-nhân    đại- thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí- tuệ có cơ hội cho quả trong 2 thời-kỳ:

–  Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).

–  Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.

a-   Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)

Người thiện nào có giới trong sạch trọn vẹn, đã tạo phước-thiện bố-thí nào, phước-thiện giữ-giới nào, phước-thiện hành-thiền nào, v.v…

Sau khi người thiện ấy chết, nếu tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có cơ hội   cho   quả   trong   thời-kỳ   tái-sinh   kiếp   sau   (paṭi- sandhikāla) có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái- sinh-tâm  (paṭisandhicitta)  cùng  với  3  sắc-pháp  (kāya- rūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthurūpa: sắc ý căn) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người tam-nhân (tihetuka- puggala) từ khi đầu thai trong lòng mẹ.

Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người tam-nhân ấy(1) vốn có trí-tuệ.

–  Nếu người tam-nhân ấy là hành-giả thực-hành pháp- hành thiền-định thì có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, chứng đắc 5 phép-thần-thông (lokiya abhiññā)(1).

–   Nếu người tam-nhân ấy là hành-giả thực-hành pháp- hành thiền-tuệ thì có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.

Hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân trên cõi trời dục-giới. Nếu vị thiên- nam tam-nhân, vị thiên-nữ tam-nhân có cơ hội đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, thì vị thiên-nam tam-nhân, vị thiên-nữ tam-nhân có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.

b-  Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại

Tam-nhân đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ nào gọi là tái- sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 sát-na-tâm, liền tiếp theo thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, chính tam-nhân đại-quả- tâm hợp với trí-tuệ ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅga- citta) tiếp tục làm phận sự hộ trì, giữ gìn kiếp người tam- nhân ấy cho đến khi hết tuổi thọ, và cuối cùng cũng chính tam-nhân đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự chuyển kiếp (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của người tam-nhân ấy.

Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại- thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại, có 16 quả-tâm đó là

–  Hữu-nhân đại-quả-tâm có 8 quả-tâm và

–  Thiện-quả vô-nhân-tâm có 8 quả-tâm.

–  Hữu-nhân đại-quả-tâm có 8 tâm

Hữu-nhân đại-quả-tâm đó là đại-quả-tâm có 8 tâm mà mỗi tâm tương xứng với mỗi tâm trong 8 đại-thiện- tâm như sau:

1-  Đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

2-  Đại-quả-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

3- Đại-quả-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

4- Đại-quả-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

5-  Đại-quả-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

6-   Đại-quả-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

7-   Đại-quả-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

8-   Đại-quả-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

Thiện-quả vô-nhân-tâm có 8 tâm:

Thiện-quả-vô-nhân-tâm có 8 quả-tâm là quả của đại- thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm:

1- Nhãn-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại-thiện-nghiệp, thấy đối-tượng sắc tốt, đáng hài lòng.

2-  Nhĩ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại-thiện-nghiệp, nghe đối-tượng âm-thanh hay, đáng hài lòng.

3-  Tỷ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại- thiện-nghiệp, ngửi đối-tượng hương thơm, đáng hài lòng.

4-   Thiệt-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại-thiện-nghiệp, nếm đối-tượng vị ngon, đáng hài lòng.

5-    Thân-thức-tâm đồng sinh với thọ lạc, là quả của đại-thiện-nghiệp, xúc-giác đối-tượng xúc an-lạc, đáng hài lòng.

6-    Tiếp-nhận-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại-thiện-nghiệp, tiếp nhận 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.

7-   Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại- thiện-nghiệp, suy xét 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.

8-   Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ hỷ, là quả của đại- thiện-nghiệp, suy xét 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.

Như vậy, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 4 đại-quả- tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người tam- nhân hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân, vị thiên-nữ tam-nhân trên 6 cõi trời dục-giới và tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti- kāla), kiếp hiện-tại gồm có 16 quả-tâm là 8 đại-quả-tâm và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp xúc biết các đối-tượng tốt đáng hài lòng trong cuộc sống kiếp hiện-tại của  người tam-nhân ấy, hoặc của vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân ấy trong cõi trời dục-giới ấy.

2- Tihetuka-omakakusalakamma là tam-nhân đại- thiện-nghiệp bậc thấp với

3-  Dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma   là   nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao.

–   Tihetuka-omakakusalakamma là tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí- tuệ   với   dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma   là   nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, 2 loại đại-thiện-nghiệp này cho quả tương đương với nhau trong 2 thời-kỳ:

–   Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).

–   Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.

a-  Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)

Người thiện nào có giới trong sạch trọn vẹn, đã tạo phước-thiện bố-thí nào, phước-thiện giữ-giới nào, phước-thiện hành-thiền nào, v.v…

Sau khi người thiện ấy chết, nếu tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ tuột xuống tương đương với nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ (2 loại đại-thiện-nghiệp này) có cơ hội cho quả tương đương trong  thời-kỳ tái-sinh  kiếp  sau  (paṭisandhikāla) có  đại- quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta)  cùng  với  3  sắc-pháp  (kāyarūpa:  thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadaya- vatthurūpa: sắc ý căn) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người nhị-nhân(1) (dvihetukapuggala) từ khi đầu thai trong lòng mẹ.

Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người nhị-nhân ấy vốn không có trí-tuệ.

–   Nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-định thì không có khả năng chứng đắc bậc thiền nào cả.

–  Nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.

Hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân trên cõi trời dục-giới. Nếu vị thiên- nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân có cơ hội đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp của Đức- Phật, thì vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị- nhân không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.

b-  Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại

Nhị-nhân đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ nào gọi là  tái-sinh-tâm  (paṭisandhicitta)  làm  phận  sự  tái-sinh kiếp sau 1 sát-na-tâm, liền tiếp theo thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, chính nhị-nhân đại- quả-tâm không hợp với trí-tuệ ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) tiếp tục làm phận sự hộ trì, giữ gìn kiếp người tam-nhân ấy cho đến khi hết tuổi thọ, và  cuối cùng cũng chính nhị-nhân đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự chuyển kiếp (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của người nhị- nhân ấy.

Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ và nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí- tuệ cho quả tương đương với nhau trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, có 12 quả-tâm đó là

–  Hữu-nhân đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ có 4 quả-tâm và

–  Thiện-quả vô-nhân-tâm có 8 quả-tâm.

Như vậy, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ tuột xuống tương đương với nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại- thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 4 đại-quả- tâm  không  hợp  với  trí-tuệ  gọi  là  tái-sinh-tâm  (paṭi- sandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người nhị-nhân hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị- nhân, vị thiên-nữ nhị-nhân trên 6 cõi trời dục-giới và tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện- tâm hợp với trí-tuệ tuột xuống tương đương với nhị- nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại gồm có 12 quả-tâm là 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp xúc biết các đối-tượng không tốt  không xấu trong cuộc sống kiếp hiện-tại của người nhị- nhân ấy, hoặc của vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên- nữ nhị-nhân ấy trên cõi trời dục-giới ấy.

Nhận xét về tihetuka-omakakusalakamma với dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma

Tihetuka-omakakusalakamma là tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, nên không đủ năng lực cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ, nên bị tuột xuống tương đương với dvihetuka-ukkaṭṭha- kusalakamma là nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh- tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau làm người thuộc về hạng người dvihetukapuggala: hạng người nhị-nhân từ khi tái-sinh đầu thai làm người hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân, vị thiên-nữ nhị- nhân trên 6 cõi trời dục-giới.

4-   Dvihetuka-omakakusalakamma là nhị-nhân đại- thiện-nghiệp bậc thấp

Dvihetuka-omakakusalakamma là nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí- tuệ cho quả trong 2 thời-kỳ:

–  Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).

–  Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.

a-  Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)

Người thiện nào có giới trong sạch trọn vẹn, đã tạo phước-thiện bố-thí nào, phước-thiện giữ-giới nào, phước-thiện hành-thiền nào, v.v…

Sau khi người thiện ấy chết, nếu nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp thuộc về thiện-quả vô-nhân- tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) cùng với 3 sắc- pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthurūpa: sắc ý căn) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người vô-nhân cõi thiện-giới(1)(sugati ahetukapuggala) là người đui mù, câm điếc, tật nguyền, … từ khi đầu thai trong lòng mẹ.

Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người vô-nhân ấy vốn là người đui mù, câm điếc, tật nguyền,… chỉ biết thông thường trong cuộc sống hằng ngày mà thôi.

Hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam vô-nhân hoặc vị thiên-nữ  vô-nhân  trong  nhóm  bhummaṭṭhadevatā:  chư thiên ở trên mặt đất thuộc về cõi trời Tứ-đại-thiên- vương.

b-  Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại

Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại- thiện-nghiệp  nào  gọi  là  tái-sinh-tâm  (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 sát-na-tâm, liền tiếp theo thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti-kāla), kiếp hiện-tại, chính suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại- thiện-nghiệp ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) tiếp tục làm phận sự hộ trì, giữ gìn kiếp người tam-nhân ấy cho đến khi hết tuổi thọ, và cuối cùng cũng chính suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện- nghiệp ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự chuyển kiếp (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của người vô- nhân cõi thiện-giới ấy.

Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ cho quả chỉ có 8 thiện quả vô-nhân-tâm mà thôi, tiếp xúc với các đối- tượng tầm thường trong cuộc sống hằng ngày.

Tuy nhiên, nếu đứa trẻ ấy bị đui mù, câm điếc, tật nguyền trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, do ác-nghiệp nào cho quả thì không thể gọi là người vô-nhân cõi thiện-giới được, bởi vì có số đứa trẻ có năng khiếu đặc biệt.

Bản tóm lược tam-nhân, nhị nhân bậc cao, bậc thấp

Tóm lược tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, tam- nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp, nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau và cho quả trong thời- kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.

Đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp Thời-kỳ tái sinh Thời-kỳ sau khi

đã tái-sinh

1- Tam-nhân đại- thiện-nghiệp bậc cao 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ 8 đại-quả-tâm + 8 thiện-quả vô- nhân-tâm
2- Tam-nhân đại-thiện nghiêp bậc thấp + nhị- nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ + 8 thiện- quả vô-nhân tâm
3- Nhị-nhân đại-thiện nghiệp bậc thấp 1suy-xét-tâm thọ xả là thiện quả vô-nhân-tâm 8 thiện-quả vô- nhân-tâm

 

Năng lực của muñcacetanā

* Phước-thiện nào trở thành tam-nhân đại-thiện- nghiệp hoặc nhị-nhân đại-thiện-nghiệp là do năng lực của muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện- tâm khi đang tạo phước-thiện ấy như sau:

Nếu muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại- thiện-tâm hợp với trí-tuệ, có diṭṭhijukamma: phước-thiện chánh-kiến hỗ trợ khi đang tạo phước-thiện nào, thì phước-thiện ấy trở thành tam-nhân đại-thiện-nghiệp (tihetukakusalakamma).

Nếu muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại- thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, không có diṭṭhijukamma: phước-thiện chánh-kiến hỗ trợ khi đang tạo phước-thiện nào, thì phước-thiện ấy trở thành nhị-nhân đại-thiện- nghiệp (dvihetukakusalakamma).

Năng lực của aparacetanā

* Phước-thiện nào trở thành tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao, bậc thấp hoặc nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp là do năng lực của aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi như sau:

Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao hoặc bậc thấp

–     Người nào đã tạo phước-thiện nào trong thời-kỳ muñcacetanā đã trở thành tam-nhân đại-thiện-nghiệp; nếu khi đến thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, sau thời gian nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, mỗi khi người ấy niệm tưởng đến phước- thiện ấy, phát sinh đại-thiện-tâm trong sạch vô cùng hoan hỷ, không có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn, nên không làm ô nhiễm đại-thiện-tâm ấy, thì phước-thiện ấy trở thành tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao (tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma).

–     Người nào đã tạo phước-thiện nào trong thời-kỳ muñcacetanā đã trở thành tam-nhân đại-thiện-nghiệp; nếu khi đến thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, sau thời gian nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, mỗi khi người ấy niệm tưởng đến phước- thiện ấy, phát sinh đại-thiện-tâm không trong sạch, bởi vì có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn, nên làm ô nhiễm đại-thiện-tâm ấy, thì phước-thiện ấy trở thành tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp (tihetuka- omakakusalakamma).

Nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao hoặc bậc thấp

–     Người nào đã tạo phước-thiện nào trong thời-kỳ muñcacetanā đã trở thành nhị-nhân đại-thiện-nghiệp; nếu khi đến thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, sau thời gian nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, mỗi khi người ấy niệm tưởng đến phước- thiện ấy, phát sinh đại-thiện-tâm trong sạch vô cùng hoan hỷ, không có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn, nên không làm ô nhiễm đại-thiện-tâm ấy, thì phước-thiện ấy trở thành nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao (dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma).

–     Người nào đã tạo phước-thiện nào trong thời-kỳ muñcacetanā đã trở thành nhị-nhân đại-thiện-nghiệp; nếu khi đến thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, sau thời gian nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, mỗi khi người ấy niệm tưởng đến phước- thiện ấy, phát sinh đại-thiện-tâm không trong sạch, bởi vì có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn, nên làm ô nhiễm đại-thiện-tâm ấy, thì phước-thiện ấy trở thành nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp (dvihetuka- omakakusalakamma).

Năng lực của tác-ý

Tất cả mọi người cùng chung tạo phước-thiện nào có muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm đang khi tạo phước-thiện ấy với đại-thiện-tâm khác nhau như sau:

* Số người có tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện- tâm hợp với trí-tuệ, gọi là tihetukakusalakamma: tam- nhân đại-thiện-nghiệp.

* Số người có tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện- tâm không hợp với trí-tuệ, gọi là dvihetukakusala- kamma: nhị-nhân đại-thiện-nghiệp.

Sở dĩ có sự khác nhau như vậy là vì muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm đang khi tạo phước-thiện khác nhau.

Tuy có số người tạo tihetukakusalakamma, tạo dvi- hetukakusalakamma giống nhau, nhưng aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi với thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm khác nhau như sau:

* Số người sau khi tạo phước-thiện ấy xong rồi, mỗi khi niệm tưởng đến phước-thiện ấy liền phát sinh đại- thiện-tâm trong sạch vô cùng hoan hỷ, không có tham- ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn làm cho đại-thiện- tâm  ô  nhiễm,  nên  phước-thiện  ấy  trở  thành  ukkaṭṭha-kusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc cao.

* Số người sau khi tạo phước-thiện ấy xong rồi, mỗi khi nhớ tưởng đến phước-thiện ấy liền phát sinh đại- thiện-tâm không trong sạch, bởi vì có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, nên phước-thiện ấy trở thành omakakusala- kamma: đại-thiện-nghiệp bậc thấp.

Sở dĩ có sự khác nhau như vậy là vì aparacetanā: tác- ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện xong rồi khác nhau.

Cho nên, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, tam- nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp, nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp, cho quả  trong  thời-kỳ  tái-sinh  kiếp  sau  (paṭisandhikāla)  và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, khác nhau như vậy.

Vì vậy, người thiện nào gần gũi thân cận với chư bậc thiện-trí, có cơ hội học hỏi, lắng nghe lời giáo huấn của chư bậc thiện-trí, thì người ấy hiểu biết cách làm phước- thiện ấy trở thành tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao (tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma), đó là đại-thiện-nghiệp cao quý có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)  có  đại-quả-tâm  hợp  với  trí-tuệ  gọi  là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người tam-nhân cao quý (tihetuka- puggala) và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc, nhất là làm nhân-duyên dắt dẫn đến sự thành- tựu Nibbānasampatti, thì hạnh phúc biết dường nào!

Nhận xét về 3 hạng người trong đời

Trong đời hiện hữu có 3 hạng người là hạng người tam-nhân (tihetukapuggala), hạng người nhị-nhân (dvihetukapuggala), hạng người vô-nhân cõi thiện-giới (sugati-ahetukapuggala) trong kiếp hiện-tại đều là quả của đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm mà mỗi người đã tạo trong kiếp quá-khứ.

* Tihetukapuggala: hạng người tam-nhân là người khi tái-sinh với đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ, nên có đủ 3 thiện-nhân: vô-tham, vô-sân, vô-si từ khi tái-sinh đầu thai làm người trong lòng mẹ.

Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, người tam-nhân vốn dĩ có trí-tuệ, nếu người tam-nhân ấy thực-hành pháp- hành thiền-định thì có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới, chứng đắc các phép thần-thông (lokiya abhiññā).

Nếu người tam-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền- tuệ thì có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.

*   Dvihetukapuggala: hạng người nhị-nhân là người khi tái-sinh với đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ, nên chỉ có 2 nhân: vô-tham và vô-sân, không có vô-si, từ khi tái-sinh đầu thai làm người trong lòng mẹ.

Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, người nhị-nhân vốn dĩ không có trí-tuệ, nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-định thì không có khả năng chứng đắc bậc thiền nào.

Nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền- tuệ thì cũng không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.

* Sugati-ahetukapuggala: hạng người vô-nhân cõi thiện-giới là người khi tái-sinh với suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp thuộc về thiện-quả vô-nhân-tâm, từ khi tái-sinh đầu thai làm người bị đui mù, câm điếc, ngu-muội.

Khi sinh ra đời lúc trưởng thành là người đui mù, câm điếc, ngu-muội, si-mê, … biết tầm thường trong cuộc sống hằng ngày.

Như vậy, 3 hạng người là người tam-nhân, người nhị-nhân, người vô-nhân cõi thiện-giới đều là do quả của đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm của mỗi người khác nhau.

Cho nên, mỗi hạng người đang hiện hữu trong cõi đời này đều do nghiệp và quả của đại-thiện-nghiệp của mỗi người mà thôi, chắc chắn không phải là số-mệnh hoặc định-mệnh nào cả, không một ai có khả năng an bài mỗi số-mệnh của mỗi chúng-sinh lớn hoặc nhỏ trong tam- giới gồm có 31 cõi-giới này được.

Đức-Phật dạy các hàng thanh-văn đệ-tử hằng ngày thường suy xét về nghiệp và quả của nghiệp rằng:

“Kammassako’mhi kammadāyādo kammayoni kamma- bandhu   kammappaṭisaraṇo,   yaṃ   kammaṃ   karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃvā, tassa dāyādo bhavissāmi.”(1)

Ta có nghiệp là của riêng ta, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta. Ta tạo nghiệp nào ‘thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp’, ta sẽ là người thừa hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp hoặc quả khổ của ác-nghiệp ấy.

Nghiệp và quả của nghiệp thật là rất công bằng, không hề thiên vị một ai cả.

Thật vậy, nghiệp và quả của nghiệp, dù Đức-Phật, chư bậc Thánh A-ra-hán cũng không có ngoại lệ.

TẢI MOBILE APP PHẬT GIÁO THERAVĀDA ĐỂ XEM THÊM NHIỀU THÔNG TIN HỮU ÍCH (ANDROID & IOS)

Các bài viết trong sách

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app