MĀTIKAMĀTĀ

Câu chuyện này tự chính đức Phật đã thuyết giảng kể lại khi Ngài ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi. Bởi vậy, đây là câu chuyện có thật và đã từng xảy ra ngay trong thế giới loài người này.

 

Khi đức Phật chưa xuất hiện trên thế gian, tại vùng trung tâm của India (Majjhimadesa) đã được phân chia thành 16 vương quốc lớn gồm: 1. Kāsi; 2. Kosala; 3. Aṅga; 4. Magadha; 5. Vajjī; 6. Malla; 7. Cetiya; 8. Vaṃsa; 9. Kuru; 10. Pañcāla; 11. Maccha; 12. Sūrasena; 13. Assaka; 14. Avanti; 15. Gandhara; 16. Kamboja. Trong 16 vương quốc lớn ấy, có ngôi làng gọi là Mātika, là một ngôi làng rộng lớn thuộc vương quốc Kosala. Người trưởng làng của ngôi làng rộng lớn ấy cũng gọi tên là Mātika. Người mẹ (thân mẫu) của người trưởng làng ấy cũng được gọi theo ngôn ngữ Pāḷi là “Mātikamātā: Thân mẫu của Mātika”.

Ngôi làng Mātika nằm dưới chân một ngọn núi, rất sầm uất và cũng rất thanh bình; nhà cửa san sát, dân cư đông đúc. Trong thời gian ấy, có 60 vị Tỳ khưu từ ngôi chùa Jetavana, gần kinh thành Sāvatthi đi đến đó, lại đúng lúc khất thực nên đã vào trong làng Mātika để khất thực. 60 vị Tỳ khưu này không phải là những vị du hóa vì mục đích để thuyết pháp tế độ chúng sinh, bởi họ là những vị vẫn đang còn là hạng phàm nhân. Vì họ đã suy xét: “nếu ở lại ngôi chùa Jetavana thì khó có cơ hội chứng đạt được Đạo-Quả”, nên đã xin đề mục thiền từ đức Phật rồi bàn tính đồng tâm đồng ý với nhau, cùng đi tìm một trú xứ thích hợp để thực hành tu tập pháp hành của bậc Tỳ khưu; do vậy họ mới rời đi và đã tìm đến ngôi làng này vậy. Chính đức Phật đã cho phép chấp thuận lời thỉnh cầu của họ, cũng như chỉ dạy đối tượng thiền thích hợp đến cho 60 vị Tỳ khưu ấy. Đức Phật đã thấy biết rõ nhân duyên nương nhờ lớn lao để có thể đưa đến chứng đạt được Đạo-Quả của 60 vị Tỳ khưu ấy, cũng như đã thấy biết rõ pāramī và các pháp làm chủ (indriya) của họ già dặn hay non trẻ thế nào. Vì vậy, đức Phật đã thuyết giảng chỉ dạy đề mục đối tượng thiền có thể chứng đạt đến Á-rá-hán Thánh quả cho 60 vị Tỳ khưu ấy, rồi cho phép họ ra đi.

Khi 60 vị Tỳ khưu ấy đi vào làng Mātika để khất thực mẫu thân của trưởng làng bà Mātikamātā đã trông thấy, chiêm ngưỡng các vị Tỳ khưu ấy. Bà Mātikamātā cũng đã từng nghe và hiểu biết một phần nào đó về những vấn đề truyền thống và phận sự liên quan đến chư Tỳ khưu đệ tử của đức Phật. Thông thường thời gian đầu của mùa mưa, chư Tỳ khưu luôn rời ngôi chùa Jetavana đi tìm kiếm những trú xứ thích hợp để cố gắng tu tập pháp hành thiền định-tuệ. Khi gặp được trú xứ thích hợp, họ sẽ trú ngụ lại tại nơi ấy để nguyện an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa theo truyền thống của Phật giáo, và cũng nỗ lực tinh tấn hành trì các pháp hành của một bậc xuất gia Tỳ khưu. Với sự nỗ lực tinh tấn hành trì như vậy, cho nên có rất nhiều vị chứng đạt thành bậc Thánh Á-rá-hán; hoặc cũng có nhiều vị chỉ chứng đạt các Thánh đạo – Thánh quả bậc thấp hơn; hoặc cũng có những vị không thấy biết rõ được sự thật chân lý của bậc Thánh, vẫn còn là hạng thiện trí phàm nhân bình thường ở đời, nên chỉ có được thiện pháp dục giới mà thôi.

Khi 60 vị Tỳ khưu đi vào làng Mātika khất thực, bà Mātikamātā đã cung thỉnh tất cả về nhà của mình để trai Tăng cúng dường cơm nước vật thực đến chư Tỳ khưu ấy. Sau đó đã thưa hỏi “Quý Trưởng lão sẽ đi tiếp đến nơi nào?”. “Đi đến nơi nào có trú xứ thích hợp và đời sống thuận lợi cho chư Tỳ khưu sẽ dừng chân ở đó.” Chư Tỳ khưu ấy đã trả lời cho bà Mātikamātā như vậy. Khi ấy bà Mātikamātā vì đoán biết “Những vị Tỳ khưu này đang tìm kiếm trú xứ thích hợp để an cư nhập hạ 3 tháng mùa mưa,” nên bà đã trình bạch lại rằng:

  • Kính bạch quý vị Trưởng lão! Nếu quý vị Trưởng lão chấp nhận ở lại nơi đây suốt 3 tháng mùa mưa, thì con nguyện sẽ thọ trì tam quy, ngũ giới và 8 giới uposatha.

Chư Tỳ khưu ấy hiểu biết rằng: “Chúng ta nương nhờ vào nữ thí chủ này, sẽ không còn vất vả trong việc chỗ ở và vật thực, do vậy sẽ có nhiều thời gian để thực hành pháp giải thoát khỏi khổ sinh tử luân hồi”, nên đã chấp nhận lời thỉnh cầu của bà Mātikamātā, và đồng ý cùng nhau an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại ngôi làng ấy. Khi biết được chư Tỳ khưu đã nhận lời ở lại, bà Mātikamātā đã cho dựng lên ngôi chùa cúng dường đến 60 vị Tỳ khưu ấy để quý vị phát nguyện an cư suốt 3 tháng mùa mưa.

Bà Mātikamātā là người luôn ghi nhớ đến ân đức của đức Phật và chư Tỳ khưu đệ tử Phật. Bởi vì, chỉ có nhờ ân đức của đức Phật và chư Tỳ khưu đệ tử Phật mà bà mới có thể thoát ra khỏi nguy hiểm từ sự đắm chìm trong vòng xoáy cuốn hút, nổi trôi giữa cuộc đời này. Thời gian trước đây, bà Mātikamātā đã biết một cách khác, hiểu ý nghĩa một cách khác về thiện và ác theo cách gọi của đạo Bà-la-môn; hoặc biết một cách khác, hiểu ý nghĩa một cách khác về thiện-ác theo quan niệm của các đạo giáo, tôn giáo khác. Có sự hiểu biết một cách khác về thiện và ác (bất thiện) như vậy là do tin theo những chủ thuyết, giáo điều của các bậc Đạo Sư, các Đấng Toàn Năng của đạo giáo, tôn giáo ấy thuyết giảng, giáo huấn vậy. Bà Mātikamātā nếu chỉ tin theo những chủ thuyết giáo điều của họ, rồi quyết định thiện-ác theo niềm tin ấy, thì không thể thoát ra khỏi từ trong sinh tử luân hồi được.

Theo giáo điều Bà-la-môn (Brahmavāda) nếu cúng tế thì đó là thiện. Thậm chí ngay đến cả việc giết hại chúng sinh, rồi với niềm tin tuyệt đối cúng tế thần linh, do sự giết hại chúng sinh ấy cũng không trở thành ác (bất thiện), điều đó chỉ có thiện tốt mà thôi. Họ dạy bảo rằng không phải vì mục đích tế lễ, mà chỉ khi giết hại chúng sinh vì mục đích khác, thì khi ấy mới tạo thành ác, bất thiện. Một khi tin và làm theo lời dạy bảo ấy, để cúng tế, làm lễ, nếu bà Mātikamātā đi sát hại giết mỗ chúng sinh, thì sự thật không thể có được phước thiện, chỉ tạo nên điều bất thiện, ác pháp mà thôi.

Khi ấy, sẽ không có được cõi tốt, cõi cao quý thuộc thiện giới (sugati), mà chỉ có được cõi khổ, cõi thấp hèn thuộc ác giới (duggati) thôi vậy. Theo như Phật dạy: “Jātaṃ saraṇato bhayaṃ: Sự sợ hãi, điều nguy hiểm phát sinh lên từ sự quy y nương nhờ, thờ tự, cúng tế”. Bà Mātikamātā đã thoát ra khỏi sự nguy hiểm tại họa này một cách nhẹ nhàng viên mãn nhất. Có được sự giải thoát khỏi mọi nguy hiểm ấy chính là do nhờ đức Phật và chư Tỳ khưu đệ tử Phật. Quả đúng vậy, ân đức này đối với bà Mātikamātā mà nói, đó là một ân đức vô cùng cao cả và lớn lao. Vì vậy, khi bà đang luôn luôn mang tâm niệm hướng đến báo đáp ân đức ấy, thì lại được diện kiến, chiêm bái 60 vị Tỳ khưu; ngay lúc ấy, bà đã thỉnh mời về nhà mình đặt bát trai Tăng cúng dường; xây dựng ngôi chùa để chư Tỳ khưu ấy an cư nhập hạ. Điều này đối với bà Mātikamātā mà nói, đó là đem hết khả năng có thể để mong đáp đền ân đức cao quý ấy vậy.

Ngoài ra, theo các chủ thuyết, giáo điều của các giáo phái khác, nếu cúng dường đến các bậc Đạo sư ngoại đạo, các du sĩ thực hành các pháp tu “tapa” cực đoan, khổ hạnh; hoặc nếu tự chính mình thực hành các pháp tu “tapa” cực đoan, khổ hạnh do các vị Đạo sư ngoại đạo, các du sĩ ấy chỉ dạy, thì đó chính là phước thiện. Đây là điều mà các Đạo sư của các giáo phái khác và các du sĩ ngoài Phật giáo và ngoài Bà-la-môn giáo thuyết giảng như vậy. Căn cứ theo như những lời dạy bảo ấy, nếu hoặc là bố thí, hoặc là tu tập pháp hành “tapa” cực đoan, khổ hạnh, thì có thể trở thành phước thiện mà cũng có thể là không; giống như tính chất đổ nước trên cát vậy. Bởi vì, nếu một khi bị tri kiến sai lệch (micchādiṭṭhi) chi phối, thì không những không phát sinh phước thiện, mà còn theo như ý nghiệp tri kiến sai lệch, nó còn tạo nên bất thiện nữa. Nếu một khi đã tạo nên bất thiện thì chắc chắn nó sẽ cho quả khổ vậy. Bà Mātikamātā do nhờ đức Phật và chư Tỳ khưu đệ tử Phật nên mới thoát được điều tác hại nguy hiểm từ những Đạo sư và các du sĩ ngoài Phật giáo này vậy.

Thời đại bà Mātikamātā có rất nhiều giáo phái. Tất cả các bậc Đạo sư, Giáo chủ vị nào cũng đều một mực khẳng định rằng những ai thực hành tu tập theo những giáo điều, chủ thuyết của họ đều sinh làm thiên chúng trong các cõi trời tốt đẹp; đều đạt được cực lạc Niết-bàn. Gia đình bà Mātikamātā là những người cũng thuộc vào hàng giàu có vừa phải; là những người có đức tin và thiện chí trong sáng mạnh mẽ. Do đó, bà Mātikamātā rất muốn làm phước cúng dường đến những Bậc mà mọi người nhận định, tôn kính gọi là bậc Thiện Trí thức. Cũng muốn thực hành tu tập theo những phương pháp mà những Bậc ấy chỉ dạy. Âu! Đây cũng là tư chất cũng như tâm tính phẩm hạnh của bà Mātikamātā vậy.

Trong thế gian này, chỉ đến khi đức Phật xuất hiện thì mới nói đến bố thí không phải khi nào cũng tốt lành cả đâu; trong sự bố thí, làm từ thiện nó có 2 mặt hoàn toàn trái ngược nhau, đó là một mặt sai-tà và một mặt đúng-chánh. Nói đến giới cũng vậy, không phải lúc nào giới cũng tốt; trong giới cũng có 2 mặt hoàn toàn trái ngược nhau, đó là một mặt sai-tà và một mặt đúng-chánh. Và nói đến thiền cũng vậy, không phải lúc nào thiền cũng tốt; trong thiền cũng có 2 mặt hoàn toàn trái ngược nhau, một mặt sai-tà và một mặt đúng-chánh. Theo như trong Chú giải bài kinh Paṭipadā, phẩm Nidāna, thuộc Saṃyutta thì mặt sai-tà hoặc gọi là “micchāpaṭipadā”, hoặc gọi là “vaṭṭasīsa”; cũng theo chính bài kinh ấy, thì mặt đúng-chánh hoặc gọi là “sammāpaṭipadā”, hoặc gọi là “vivaṭṭasīsa”.Micchāpaṭipadā” có thể dịch nôm na tiếng Việt là “sự thực hành sai trái, lệch lạc”; và “sammāpaṭipadā” dịch nghĩa là “sự thực hành đúng đắn, chơn chánh”; còn “vaṭṭasīsa” dịch nghĩa nôm na tiếng Việt là “sự hướng vào trong khổ luân hồi”;“vivaṭṭasīsa” nghĩa là “sự hướng đến Niết-bàn nơi thoát khỏi khổ luân hồi”. Những tính chất này, bà Mātikamātā biết được như vậy là do nương nhờ đức Phật và chư Tỳ khưu đệ tử của Phật.

Đã là một phàm nhân đương nhiên luôn luôn mang trong mình tâm của phàm nhân vậy. Tâm của phàm nhân cũng có nghĩa là bao gồm cả tâm thiện (tốt) và tâm bất thiện (xấu ác). Do đó cho nên, đối với hạng phàm nhân tùy theo nhân duyên hoàn cảnh mà có khi làm phải việc phước thiện (tốt), và cũng có khi làm phải việc bất thiện (xấu ác). Sở dĩ họ làm phải như vậy, âu cũng có thể là do bản tính tự nhiên của hạng phàm nhân không thể tránh khỏi nên làm như vậy (vô ý); và cũng có thể họ có chủ ý mới làm như vậy (cố ý).

Tuy nhiên, kể từ khi lắng nghe lời dạy bảo của đức Phật và chư Tỳ khưu đệ tử, nên đã biết rõ được bất thiện đúng là bất thiện; trong bất thiện cũng có 2 mặt trái ngược nhau. Và phước thiện đúng là phước thiện, trong phước thiện cũng có 2 mặt trái ngược nhau vậy. Sự hiểu biết này, theo như đề mục quan sát tâm (cittānupassanā), thì có thể nói rằng đó là trí tuệ thấy biết như thật (yathābhūtañāṇa: trí tuệ có sao thấy biết vậy). Trí tuệ thấy biết như thật đó chính là sự thấy biết đúng đắn chơn chánh (sammādiṭṭhi) vậy.

Bà Mātikamātā đã dần hiểu biết được tính chất và ý nghĩa ấy. Bởi nếu như thời gian trước đây khi chưa nghe được Pháp bảo của đức Phật, thì bà Mātikamātā đã từng suy nghĩ điều bất thiện (xấu ác) cho là phước thiện; và điều phước thiện lại nghĩ là bất thiện. Có sự nghĩ sai như vậy là do những lời chỉ dạy sai trái, lệch lạc từ các vị Bà-la-môn và các vị Đạo sư, Giáo chủ của các giáo phái bên ngoài Phật giáo vậy. Thật ra sự nhớ nghĩ sai, sự chấp lầm này gọi là tà kiến (micchādiṭṭhi).

Dù là làm việc tạo nghiệp phước thiện, hoặc là làm việc tạo nghiệp bất thiện, cũng không nên chỉ tính toán riêng một mình nghiệp không thôi, mà còn phải tính luôn cả 2 mặt của công việc tạo nên nghiệp ấy nữa mới được.

Nếu chỉ làm vì lợi ích cho chính bản thân mình thì đó gọi là mặt sai (tà). Còn nếu hoặc làm vì lợi ích phát triển của thế gian, hoặc vì làm sao để chánh pháp có thể được phát triển rộng khắp trong thế gian này, ngăn những điều phi pháp không để cho nó phát triển, thì đó gọi là mặt đúng (chánh).

Mặt đúng (chánh) nghĩa là mặt mang tính chất của pāramī. Trong các câu chuyện tiền thân, chúng ta bắt gặp cuộc đời của những vị Bồ Tát Chánh Đẳng Giác khi đang bồi bổ thực hành các pāramī đã tái sinh làm những kiếp súc sinh không phải sao?

Khi nói đến tái sinh làm súc sinh, điều này rõ ràng là nói đến những vị Bồ Tát Chánh Đẳng Giác ấy đã làm việc tạo nghiệp bất thiện vậy. Tuy nhiên, những vị Bồ Tát Chánh Đẳng Giác ấy, dù tái sinh trong bất cứ kiếp sống nào cũng không bao giờ sinh làm hạng thấp hèn, kém cỏi; mà chỉ sinh làm hạng cao quý, quyền uy; như khi sinh trong loài chim thì cũng làm Điểu Vương, khi sinh trong loài khỉ thì cũng làm Hầu Vương, v.v…. Sự tái sinh này là do tính chất mang năng lực của pāramī nên mới có được như vậy. Bà Mātikamātā cũng biết rõ sự thật mang tính chất này.

Trong thế gian này, dù cho có làm việc tạo thiện nghiệp đi chăng nữa; nhưng nếu với ý nghĩ trong tâm rằng “cái này do ta làm”, thì nghĩa là điều đó do bởi ngã mạn (māna) làm vì cái ta (atta). Hoặc nếu với ý nghĩ trong tâm rằng “cái này làm chỉ vì muốn tốt nhất cho ta”, thì nghĩa là điều đó do tham ái (taṇhā) dính mắc mà làm vì cái ta (atta) vậy. Còn nếu làm với ý nghĩ trong tâm rằng “chỉ có việc ta làm là đúng, việc của những người khác làm là sai; chỉ có tri kiến của ta là đúng chân lý, còn tri kiến của những người khác là sai, không đúng chân lý”, thì nghĩa là điều đó là chấp trước do tri kiến sai lệch (diṭṭhi) nắm giữ chấp thủ mà làm vì cái ta (atta) vậy. Bởi thật ra trong 3 loại bám víu chấp thủ cái tôi, cái ta (atta) do từ tham ái, ngã mạn, tà kiến ấy; thì dù làm việc gì đi nữa với bất cứ sự bám víu chấp thủ nào, điều đó cũng làm vì cái tôi cái ta cả. Do đó, đứng về phương diện 2 mặt đối nghịch mà nhìn nhận, thì đều thuộc về mặt không tốt. Mặt không tốt đó gọi là “sự thực hành sai lệch” (micchāpaṭipadā); hoặc gọi là “hướng vào khổ sinh tử luân hồi” (vaṭṭasīsa). Còn nếu vì cái tôi mà làm việc bất thiện, xấu ác, thì đâu cần phải nói đến làm gì nữa. Đối với nghiệp cũng không tốt, và đối với mặt đối lập thực hành cũng không tốt. Do đó, cả 2 loại đều không tốt, cũng giống như câu ngạn ngữ “Trái bầu nặng thì thuộc loại trái bí”; khi cả 2 đều không tốt, thì chỉ có cho quả nơi cõi khổ mà thôi.

Còn nếu hoặc vì dân tộc của mình, hoặc vì đất nước của mình, hoặc vì sự phát triển chánh pháp trong thế gian này, với tinh thần từ bỏ lợi ích của bản thân, chịu hy sinh cuộc đời mình, nhưng do không thể tránh khỏi, nên làm việc xấu-ác; thì theo đó nếu nói về nghiệp thì là bất thiện, nhưng do sự tác ý hướng tâm từ bỏ, hy sinh cái tôi, cái ta (atta), nên nói về mặt đối lập thực hành thì đó là mặt tốt. Vì vậy, mặt đối lập thực hành của hành động này gọi là “thực hành chơn chánh” (sammāpaṭipadā), hoặc gọi là “quay đầu hướng về Niết-bàn” (vivaṭṭasīsa). Thật vậy, sự thực hành ở mặt đối lập này là mặt thực hành mà chư Bồ Tát Chánh Đẳng Giác thường thực hành. Và đó cũng chính là mặt thực hành để trở thành pāramī vậy. Bà Mātikamātā cũng biết rõ về tính chất này. Có được sự hiểu biết như vậy nguyên nhân chính yếu là xuất phát từ sự thân cận gần gũi đức Phật và chư Tỳ khưu đệ tử Phật. Do đó, bà Mātikamātā đã tri ân công đức lớn của đức Phật cùng Thánh chúng đệ tử Phật mà không có ngôn từ nào để tả hết được.

60 vị Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa năm đó tại ngôi chùa do bà Mātikamātā đã xây dựng cúng dường ấy. Họ đều rất nỗ lực cố gắng trong phận sự thực hành tu tập pháp của bậc xuất gia. Sự cố gắng thực hành pháp như vậy, chính là sự thực hành để đem hết khả năng nhằm cứu độ tất cả các hạng người có trong thế gian này thoát khỏi khổ sinh tử luân hồi; không phải nỗ lực thực hành pháp chỉ với mục đích vì lợi ích của riêng bản thân mình. Điều này mang tính chất giống như mình phải tập luyện cho biết bơi trước khi muốn cứu vớt những người bị đuối nước vậy. Chính điều này được gọi là pāramī. Pāramī nghĩa là khi làm bất cứ công việc gì cũng hướng đến vì lợi ích của số đông. Do đó, những việc làm với tâm cao thượng như vậy mới gọi là “việc làm của những người cao thượng (pāramī)”.

60 vị Tỳ khưu đồng phạm hạnh, khi tinh tấn thực hành pháp, họ không phải tập trung cùng nhau tu tập, mà mỗi một vị tìm đến nơi thanh vắng, yên tịnh để thực hành pháp của mình. Tuy nhiên, để khi có việc mọi người có thể tập trung lại một nơi, họ đã cho đặt một cái chuông lớn ở ngay chính giữa ngôi chùa. Mỗi khi có việc gì quan trọng, hoặc một vị Tỳ khưu nào bị tật bệnh, ốm đau họ sẽ đánh chuông báo động. Nếu khi nghe được tiếng chuông, tất cả các vị Tỳ khưu đều phải rời khỏi chỗ thực hành tu tập của mình, để tập trung lại một nơi rồi thảo luận bàn bạc giải quyết những sự việc phát sinh lên ấy; chỉ có thời gian như vậy các vị Tỳ khưu mới tập trung gặp gỡ nhau. Ngoài ra, khi đến thọ giáo lúc chiều tối với vị Đại Trưởng lão; hoặc khi đi vào làng khất thực vào buổi sáng, thì tất cả 60 vị mới tập trung cùng đi với nhau; còn những khi khác mỗi một vị đều chỉ ở riêng một mình, tinh tấn nỗ lực thực hành pháp thiền (vipassanā).

Trong một ngày nọ, bà Mātikamātā đem theo dầu, bơ, mật mía…, chiều muộn đi đến chùa; khi vào đến chùa bà rất đỗi ngạc nhiên vì không thấy bóng dáng một vị Tỳ khưu nào. Và khi nhìn thấy cái chuông lớn đặt ở giữa chùa, bà ta đã đến đánh vào nó; chỉ khi tiếng chuông vang lên các vị Tỳ khưu mỗi một người mới từ chỗ ở riêng của mình xuất hiện từng vị, từng vị một; trên cùng một con đường không có bóng dáng 2 vị cùng xuất hiện. Nhìn thấy tình cảnh ấy, bà Mātikamātā đã liền bạch hỏi: “Có phải các vị đã tranh cãi, giận ghét nhau không vậy?” Khi nghe hỏi vậy, các vị Tỳ khưu liền trả lời giải thích cho bà rằng: “Chỉ có lúc chiều tối đến vị Đại Trưởng lão nghe chỉ giáo, hoặc buổi sáng mai cùng đi bát khất thực, hoặc khi có việc quan trong nghe tiếng chuống báo hiệu, chúng Tỳ khưu mới cùng nhau tập trung hội họp lại một chỗ; còn bình thường mỗi người sẽ ở một nơi để tinh tấn nỗ lực thực hành pháp, không thể có 2 vị cùng ở một nơi để thực hành pháp với nhau”.

Khi bà Mātikamātā bạch hỏi chư Tỳ khưu rằng pháp mà những bậc xuất gia thực hành thì người tại gia cận sự nam-nữ có thực hành được không; và khi biết được người tại gia cận sự nam-nữ cũng có thể thực hành được pháp ấy, bà đã thỉnh cầu chư vị Tỳ khưu chỉ dạy pháp ấy để thực hành. Chư Tỳ khưu đã chỉ dạy đề mục quán tưởng 32 thể trược (koṭṭhāsa: đáng nhờm gớm), bà đã theo đó tinh tấn thực hành đề mục ấy. Ngay trong đêm ấy, bà Mātikamātā đã chứng đắc Thánh đạo, Thánh quả Bất Lai, trở thành bậc Thánh Bất Lai (Anāgāmi là bậc Thánh thứ ba trong bốn bậc Thánh nhân của Phật giáo), và chứng đạt luôn 4 tuệ phân tích (paṭisambhidā), cùng 6 pháp thần thông (abhiññā). 

(Sau khi được học và thực hành đề mục 32 koṭṭhāsa: phần đáng nhờm gớm, bà đã chứng đạt bậc Thánh Bất Lai với 4 tuệ phân tích và 6 pháp thần thông, nên bà suy nghĩ người ở đời nhiều việc như ta mà chỉ tu tập trong thời gian ngắn đã có thể đạt đến quả vị như thế này, có lẽ các bậc Trưởng lão quý kính của ta, các vị đã chứng đạt được những quả vị cao hơn từ lâu rồi). Suy nghĩ như vậy xong, bà đã dùng thần thông để quán chiếu tình trạng của 60 vị Tỳ khưu, thì được biết tất cả họ đều vẫn còn là những hạng phàm nhân bình thường mà thôi.

Khi bà quán chiếu xem 60 vị Tỳ khưu có được nhân duyên nương nhờ lớn lao (upanissaya) để có thể chứng đạt quả vị Á-rá-hán hay không? Bà đã biết được cả 60 vị đều có đầy đủ nhân duyên để chứng đạt đến quả vị Á-rá-hán ấy. Mặc dù đối với 60 vị Tỳ khưu ấy, các nhân duyên nương nhờ lớn để chứng đạt bậc Thánh Á-rá-hán như trú xứ là chùa và cốc liêu đều rất thích hợp; thời tiết cũng rất hài hòa thích hợp; con người là những bạn đồng tu phạm hạnh cũng vậy; trong khi vật thực là chưa thích hợp với các vị ấy. Do vậy mà 60 vị Tỳ khưu ấy chưa có thể chứng đạt thành bậc Thánh Á-rá-hán cao thượng được.

Sau đó, bà Mātikamātā với thần thông quán chiếu ấy đã chuẩn bị, sắp đặt những vật thực thích hợp đến cho từng mỗi vị Tỳ khưu. Khi thỉnh mời quý vị Tỳ khưu đến dùng cơm độ ngọ, tất cả 60 vị Tỳ khưu đã dùng được các món vật thực thích hợp với mình nên tâm an lạc thư thái. Với tâm an lạc nhẹ nhàng thư thái ấy, khi các vị Tỳ khưu ấy thực hành pháp thiền vipassanā, tất cả đều chứng đắc Á-rá-hán Thánh quả cùng 4 tuệ phân tích và trở thành những bậc Thánh Á-rá-hán cao thượng trong đời.

Đến khi mãn hạ (sau rằm tháng 9 Âm lịch), 60 bậc Á-rá-hán Tỳ khưu ấy sau khi báo tin rời đi cho bà Mātikamātā biết rồi tất cả cùng lên đường trở về ngôi chùa Jetavana, gần kinh thành Sāvatthi để diện kiến đức Phật. Sau khi họ đảnh lễ đức Phật xong, Ngài đã hỏi thăm về tình hình cuộc sống trong 3 tháng an cư mùa mưa. Các bậc Thánh Á-rá-hán ấy, đã trình bạch lên đức Phật là do nhờ bà Mātikamātā biết cách cúng dường hộ độ vật thực thích hợp với từng mỗi người, nương vào đó nên tất cả mọi người ai cũng chứng đắc được Á-rá-hán Thánh quả cùng với 4 tuệ phân tích. 60 vị Thánh Á-rá-hán ấy đối trước đức Phật đã cùng nhau tán dương ca ngợi công đức lớn lao của bà Mātikamātā như vậy.

Khi 60 bậc Thánh Á-rá-hán đang tán dương ca ngợi công đức lớn lao của bà Mātikamātā trước đức Phật và hội chúng như vậy, trong hội chúng ấy có một vị Tỳ khưu phàm nhân sống trong ngôi chùa Jetavana đang tham dự một nơi hợp lẽ gần đó. Khi nghe được câu chuyện đó, vị Tỳ khưu phàm nhân ấy, cũng muốn giống như cách thức của 60 vị Tỳ khưu Á-rá-hán cao thượng kia, đó là nương nhờ vào sự hộ độ cúng dường vật thực của bà Mātikamātā để nỗ lực tinh tấn thực hành pháp cho đến khi chứng đạt thành bậc Thánh Á-rá-hán. Và cũng như 60 vị Tỳ khưu Á-rá-hán cao thượng kia, vị Tỳ khưu này là người được lưu danh trong Phật giáo với tên gọi “aññatara: một vị Tỳ khưu không rõ họ tên”. Tuy với danh xưng “aññatara: một vị Tỳ khưu không rõ họ tên” được lưu lại trong Phật giáo, nhưng vị Tỳ khưu ấy lại là một vị đã chứng đạt được Á-rá-hán Thánh quả với 4 tuệ phân tích và 6 phép thần thông trở thành bậc Thánh Á-rá-hán cao thượng trong đời.

Vì vậy, vị Tỳ khưu ấy trong phận sự gánh vác trách nhiệm làm cho Phật giáo hưng thịnh phát triển, có thể nói rằng đó không phải là công việc “aññatara: không đâu vào đâu”. Tuy nhiên, xét về mặt gương mẫu tiếng tăm, thì quả đúng là “aññatara” một cách tuyệt đối của “aññatara: không rõ họ tên”. Đúng thật là bậc đáng kính ngưỡng! Bởi vì, trong lịch sử Phật giáo, vị ấy đến cả tên của mình cũng không muốn nêu ra để lưu truyền hậu thế vậy. Đây là điều trong Phật học gọi là “appicchā”. Appicchā nghĩa là “tham muốn ít” hoặc “không tham muốn”. Bởi thật ra, khi càng tham muốn ít, hoặc không tham muốn, thì càng diệt được tham lam (lobha) trong sự gánh vác trách nhiệm công việc vậy. Và một khi đã chiến thắng được tham muốn (lobha) cũng là lúc chiến thắng được thế gian (loka). Sự chiến thắng tham muốn (lobha) đó chính là sự đoạn diệt được sự thật nhân sinh khổ (samudayasacca); một khi đã đoạn diệt được sự thật nhân sinh khổ, thì cũng là lúc chứng đạt đến Niết-bàn ngay tức thời; và một khi đã chứng đạt đến Niết-bàn chính là sự chiến thắng thế gian (loka) vậy.

Bởi thật ra, hương vị của “aññatara: một người không rõ họ tên” là rất đáng thỏa thích, hoan hỷ; tuy là rất đáng thỏa thích hoan hỷ nhưng rất ít người biết và ghi nhận tác nhân làm nên hương vị thỏa thích, hoan hỷ ấy. Do đó, trong khi gánh vác trách nhiệm và phận sự của một công việc phần đông con người đều mong muốn được lưu danh, nổi tiếng. Trong khi đó, càng nhiều người đứng sau, không cho ai biết mình, mà chỉ âm thầm, kín tiếng để gánh vác trách nhiệm làm công việc, thì công việc ấy càng dễ thành công tốt đẹp. Cho nên, có thể nói thật ra rằng, Phật giáo giữ được sự trong sạch, bền vững và phát triển cho đến ngày nay, chính là do nương vào oai lực ân đức cao thượng của các bậc Thánh Á-rá-hán “aññatara: không rõ họ tên” và chư bậc Trưởng lão giới đức trong sạch thanh tịnh “aññatara: không rõ họ tên” vậy.

Đối với vị Tỳ khưu ấy, là người biết hài lòng với phương châm và tâm niệm “không cần tên tuổi, chỉ làm nhiều việc” (nói ít làm nhiều). Vì vậy, trong lịch sử Phật giáo vị ấy đã không để tên của mình lại, mà với danh xưng “aññatara: không rõ họ tên” (một vị Tỳ khưu nọ), để hoàn thành mọi phận sự chứng đạt thành bậc Thánh Á-rá-hán với đầy đủ 4 tuệ phân tích và 6 pháp thần thông (chaḷābhiññā). Đó chính là làm vì sự lợi ích và phát triển của Phật giáo. Vì sự lợi ích và phát triển của Phật giáo cũng chính là vì sự lợi ích và phát triển của thế gian vậy. Thật ra, những bậc Thánh Á-rá-hán đã đoạn diệt hoàn toàn phiền não ô nhiễm, thì trong suốt cuộc đời còn lại, những gì các vị ấy làm chỉ là vì sự lợi ích và phát triển cho thế gian, không phải vì sự lợi ích phát triển của riêng vị ấy. Bởi vì sự lợi ích và phát triển của vị ấy chính là diệt tận phiền não ô nhiễm, thì vị ấy đã làm xong, đã hoàn thành trọn vẹn hết rồi.

Ngoài ra, vị Tỳ khưu “aññatara: không rõ họ tên” ấy lại là vị muốn làm tấm gương sáng cho cuộc đời này noi theo: “Nếu muốn làm một cách nhiệt tâm hoàn thành nhanh chóng trong công việc vì sự lợi ích phát triển cho thế gian này, thì không nên dính mắc danh tiếng trong mỗi khi gánh vác trách nhiệm công việc ấy”. “Danh tiếng” thật ra chính là đại quân tinh nhuệ thứ nhất của Ma vương, rất nguy hiểm, mà chúng ta phải chiến đấu. Trong cuốc chiến đấu ấy, không phải lúc nào muốn thắng là thắng được, mà cần phải có sự giúp đỡ hỗ trợ (may mắn) từ cuộc đời (loka: thế gian) mới có thể thắng được. Và ngoài ra nữa, để cuộc đời có thể giúp đỡ hỗ trợ (may mắn), cũng cần phải đã từng làm phước thiện và nguyện ước từ nhiều kiếp trước; ngay kiếp hiện tại cần phải nỗ lực cố gắng; cũng cần phải có nơi nường nhờ đúng tốt vững chắc; và cũng cần có nơi chốn để có thể được hoàn toàn thực hiện trách nhiệm và công việc nữa. Phải có đầy đủ 4 nguyên nhân này mới thành tựu được. Khi có đầy đủ 4 nguyên nhân này gọi là người có 4 điều thuận lợi thích hợp luân chuyển (catucakkasampatti) trong đời vậy.

Vị ‘aññatara’ Tỳ khưu đã thực hiện phận sự một cách nhanh chóng nhất có thể để đem lại sự lợi ích phát triển cho thế gian, đến độ không muốn lưu lại danh tiếng mà chỉ làm với danh xưng aññatara, rồi cũng với danh xưng aññatara ấy chứng đạt được pháp đặc biệt cao thượng; và tịch diệt Niết-bàn cũng với danh xưng aññatara. Bởi thật ra, chiều dài suốt cuộc đời của một kiếp người, nếu đem ra so sánh với dòng sinh tử luân hồi thì cũng giống như 1 bong bóng nước nổi trên mặt đại dương mà thôi. Còn nói một cách chính xác hơn tuổi thọ của một kiếp người không thể dài lâu như bong bóng nước trên mặt đại dương được. Tính chất này vị Tỳ khưu aññatara đã thấy biết một cách rõ ràng. Vì vậy mà vị ấy muốn đến ngôi làng Mātika nương nhờ vào nữ thí chủ Mātikamāmā để tinh tấn nỗ lực tu tập thực hành pháp (vipassanā). Không phải nhanh chóng hoàn thành phận sự của một vị xuất gia mới có thể không vì mình, mà duy chỉ vì làm lợi ích phát triển cho thế gian được nhanh chóng và thuận lợi hay sao? Do đó, vị Tỳ khưu aññatara: không rõ họ tên ấy đã quyết định trình bạch mong muốn ấy lên đức Phật rồi xin đề mục, đối tượng thiền tuệ nơi Ngài, để đi đến ngôi làng Mātika.

Sau đó, vị Tỳ khưu aññatara đã đến trình bạch lên đức Phật những tâm tư nguyện vọng ấy. Đức Phật đã quán xét những pháp chủ (indriya) của vị Tỳ khưu aññatara già dặn hay non trẻ, rồi dạy đề mục thiền định-tuệ thích hợp với bản tính, hạnh nguyện và cho phép ra đi. Vị Tỳ khưu aññatara ấy đã lên đường đến ngôi làng Mātika để thực hành pháp vipassanā.

Vị Tỳ khưu aññatara đã đến được ngôi làng Mātika, khi nhìn ngôi thiền viện mình sẽ trú ngụ để thực hành pháp, vì ngôi thiền viện đã từ lâu không có vị Tỳ khưu nào sinh sống nên bụi bám, lá cây chất đống khắp nơi. Trong khi vị Tỳ khưu aññatara vừa trải qua một hành trình vất vả, mệt nhọc nên không thể nào quét dọn vệ sinh ngôi chùa ngay được, có sao ở vậy. Sau đó, trong tâm của vị Tỳ khưu ấy đã phát sinh lên mong muốn “Nếu bà Mātikamātā cho người đến quét dọn vệ sinh ngôi thiền viện thì tốt biết bao!” Bà Mātikamātā biết được điều mong muốn ấy, nên đã sai bảo một người đến quét dọn vệ sinh ngôi thiền viện. Tiếp theo, tâm vị Tỳ khưu ấy lại mong muốn “Ước gì bà Mātikamātā sắp đặt làm nước trái cây, mật ong rồi sai bảo người mang đến dâng cúng thì tốt biết bao!” Bà Mātikamātā cũng đã sắp đặt nước trái cây và mật ong rồi sai người mang đến dâng cúng theo ước muốn ấy.

Sau đó vị Tỳ khưu ấy với tâm suy nghĩ mong muốn “Sáng sớm ngày mai, nếu bà Mātikamātā sắp đặt cháo và vật thực mềm rồi sai bảo người mang đến dâng cúng thì tốt biết dường nào!” Bà Mātikamātā cũng vậy, theo mong muốn của vị Tỳ khưu aññatara ấy mà sắp đặt cháo và vật thực mềm rồi lại sai người đem đến chùa dâng cúng. Ngày hôm sau, vị Tỳ khưu aññatara (không rõ họ tên) ấy lại mong muốn ở trong tâm “Nếu bà Mātikamātā chuẩn bị vật thực, đồ tráng miệng cứng mềm để trai Tăng buổi trưa (ăn trưa), rồi sai người mang đến thiền viện dâng cúng, thì thật là tốt quá!”. Bà Mātikamātā cũng lại sắp đặt, chuẩn bị đầy đủ cơm nước vật thực như mong muốn của vị Tỳ khưu aññatara ấy rồi sai bảo người mang đến cúng dường trai Tăng buổi trưa tại ngôi thiền viện.

“Ta mong muốn thế nào thì bà Mātikamātā đều sai bảo người khác đến dâng cúng và làm đúng y với tất cả những điều mong muốn ấy. Mặc dù vậy, ta vẫn chưa được gặp bà Mātikamātā; cho nên lần này đích thân Bà ấy đến thiền viện dâng cúng trai Tăng cơm nước vật thực thì tốt biết bao!” Vị Tỳ khưu ấy lại ước muốn trong tâm như vậy. Bà Mātikamātā cũng đã làm theo mong muốn của vị Tỳ khưu aññatara ấy, chính tự mình đến thiền viện cúng dường trai Tăng, dâng cơm nước vật thực lên vị Tỳ khưu ấy. Sau khi dùng cơm nước vật thực xong, vị Tỳ khưu aññatara đã hỏi bà:

  • Mātikamātā chính là nữ thí chủ phải không?

Sau khi bà Mātikamātā trình bạch lại đúng chính là bà, vị Tỳ khưu aññatara ấy liền hỏi tiếp:

  • Nữ thí chủ là người biết được tâm suy nghĩ của người khác phải không? Khi được hỏi như vậy, bà Mātikamātā bạch hỏi lại:
  • Thưa Trưởng lão, sao Trưởng lão lại hỏi như vậy? 
  • Bởi vì những gì mong muốn trong tâm của bần Tăng, cho dù mong muốn điều gì, nữ thí chủ cũng đều làm đúng y theo tất cả những mong muốn ấy, nên mới hỏi như vậy. Khi được hỏi vị Tỳ khưu aññatara đã nói cho bà Mātikamātā biết lí do hỏi như trên.

Bà Mātikamātā cũng đã trình bạch lại rằng:

  • Kính bạch Trưởng lão! Ngay chính trong thế gian này có rất nhiều người biết được tâm suy nghĩ của người khác.

Khi ấy, vị Tỳ khưu aññatara đã trực tiếp hỏi thẳng vào vấn đề rằng:

  • Này nữ thí chủ! Không phải bần Tăng hỏi người khác, bần Tăng chỉ hỏi nữ thí chủ mà thôi.

Tuy vậy, bà Mātikamātā vẫn không trả lời thẳng câu hỏi mà chỉ trả lời gián tiếp rằng:

  • Kính thưa Trưởng lão! Những người biết được tâm suy nghĩ của người khác thường có thể làm được những điều như vậy.

Bởi thật ra, những bậc Thiện trí thức không bao giờ đem đức độ của mình ra nói cho người khác; huống nữa là bậc Thánh Bất Lai như bà Mātikamātā thì làm sao lại có thể nói thẳng ra “chính mình là người biết được tâm suy nghĩ của người khác” được. Chính vì vậy mà các bậc hiền triết đã dạy: “attaguṇapakāsanaṃ nāma hīnalakkhaṇaṃ: sự nói ra đức độ của chính mình đó là tướng trạng, tính chất của người thấp hèn” vậy.

Khi ấy, vị Tỳ khưu aññatara đã rất kinh sợ, chính mình cũng không tin chắc, trong khi tuy bà Mātikamātā cũng không chịu công nhận trực tiếp nói ra, nhưng biết được tâm suy nghĩ của người khác là một điều có thật không thể chối cãi được. “Đối với chính mình, cũng như đối với bản chất của phàm nhân thì chính mình không phải là những người đã chiến thắng hay làm chủ được tâm của mình. Bởi cũng có thể suy nghĩ điều thích hợp (điều thiện tốt) và cũng có thể suy nghĩ điều không thích hợp (điều xấu ác). Nếu lỡ suy nghĩ những điều không thích hợp thì quả thật là đáng hổ thẹn. Vì vậy, chỉ có cách rời bỏ ngôi thiền viện này là cách tốt nhất cho mình” (tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách), với suy nghĩ và quyết định đó, nên vị Tỳ khưu aññatara ấy đã báo cho bà Mātikamātā biết mình không tiếp tục ở lại ngôi thiền viện này nữa, mà trở về bên đức Phật tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi.

Mặc dù bà Mātikamātā tha thiết thỉnh cầu ở lại, nhưng vị Tỳ khưu aññatara vẫn không dám ở lại ngôi làng Mātika, để nương nhờ bà Mātikamātā mà tu tập thực hành pháp (vipassanā) nữa. Vị Tỳ khưu aññatara tuy là một phàm nhân, nhưng lại là bậc có giới hạnh hoàn toàn trong sạch, có pāramī già dặn, vì vậy mới hổ thẹn và kinh sợ. Sự hổ thẹn đó chính là vì xuất phát từ nguyên nhân giới hạnh của phàm nhân mà hổ thẹn, gọi theo ngôn ngữ Phật học là “hirī” vậy. Trong khi sự kinh sợ, đó chính là vì xuất phát từ nguyên nhân bà Mātikamātā là người biết được tâm suy nghĩ của người khác mà kinh sợ, gọi theo ngôn ngữ Phật học là “ottappa” vậy. Bởi thật ra, sự hổ thẹn và sự kinh sợ là tính chất của thiện pháp. Do đó, những người biết tự hổ thẹn và những người biết tự kinh sợ gọi là “chư bậc Thiện Trí” vậy. Sự hổ thẹn và sự kinh sợ ở đây đó là nói đến sự hổ thẹn và sự kinh sợ từ những điều bất thiện, xấu ác; chứ không phải nói đến những sự hổ thẹn và sự kinh sợ từ những điều thuộc loại khác.

Sau đó vị Tỳ khưu aññatara ấy đã rời ngôi làng Mātika để trở lại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi. Khi về đến ngôi chùa Jetavana, liền trình bạch tường thuật lại đầy đủ mọi điều đã xảy ra tại ngôi thiền viện gần làng Mātika ấy lên đức Phật. Khi nghe trình bạch xong, đức Phật đã ban lời giáo huấn và dạy bảo Tỳ khưu aññatara nên quay lại ngôi thiền viện gần làng Mātika. Bởi thật ra, đức Phật đã quán xét biết được rằng, chỉ có nhân duyên nương nhờ đặc biệt (upanissaya) vào ngôi làng Mātika, vào bà Mātikamātā rồi nỗ lực tinh tấn thực hành pháp, thì vị Tỳ khưu aññatara này mới chứng đạt thành bậc Thánh Á-rá-hán cao thượng, nên Ngài mới chỉ dạy vị Tỳ khưu ấy quay trở lại ngôi làng Mātika vậy.

Tiếp theo, đức Phật chỉ dạy Tỳ khưu aññatara không cần phải để ý đến bất cứ đối tượng nào bên ngoài, mà duy chỉ có dùng tâm của mình làm đối tượng rồi quan sát, theo dõi tiến hành thiền tuệ (vipassanā), thì không có gì phải kinh sợ bà Mātikamātā. Để tiến hành tu tập được như vậy, đức Phật đã thuyết dạy bài kệ để thực hành chánh niệm khắng khít (satipaṭṭhāna) trên tâm làm đối tượng thiền tuệ theo quan sát tâm (cittānupassanā) như sau:

(Dịch nghĩa bài kệ)

“Tâm rất khó giáo huấn; nó rất mau lẹ; nó muốn đến đâu là có thể đến đó.

Tâm ấy nếu giáo huấn cho nó thuần thục, hiền thiện thì rất tốt. Bởi vì khi tâm được giáo huấn thuần thục, hiền thiện nó sẽ mang lại sự an lạc.”

Trong hội chúng nghe bài pháp này, một số đã xin quy y Tam bảo trở thành những cận sự nam-nữ trong Phật giáo. Vì vậy, bài pháp này là bài pháp đem lại nhiều quả báu lợi ích, phát triển cho thính chúng vậy.

Đã là tâm thì rất khó giáo huấn cho nó thuần thục, hiền thiện. Cũng không nên giáo huấn tâm bằng cách thả cho nó tự nhiên theo mong muốn của nó mà không có sự giữ gìn, phòng ngừa. Và phương pháp giáo huấn tâm như vậy cũng không phải là phương pháp đúng đắn chân chính. Do đó, nếu giáo huấn tâm với phương pháp ấy, thì tâm không những không thuần thục, hiền thiện mà nó còn trở nên hoang dã, thô thiển hơn. Càng hoang dã, thô thiển hơn bao nhiêu thì tâm sẽ lại càng nổi loạn, hung dữ bấy nhiêu. Vì thế cho nên, phương pháp giáo huấn tâm như vậy thuộc về sự giáo huấn tâm cực đoan. Phương pháp giáo huấn tâm cực đoan như vậy có thể nói nó nằm trong pháp cực đoan gọi là “kāmasukhallikānuyoga: nghiêng theo sự thụ hưởng khoái lạc trong tham dục”.

 Cũng không thể dùng phương pháp cứng rắn phi pháp đàn áp, ngăn cấm để giáo huấn tâm cho nó trở nên thuần thục, hiền thiện được. Theo đó, nếu dùng phương pháp cứng rắn phi pháp chèn ép, ngăn cấm để giáo huấn thì sự giáo huấn ấy lại rơi vào tình cảnh đối đầu trực tiếp với bản chất tự nhiên của tâm. Bởi thật ra, tự nhiên (sabhāva) luôn có một năng lực to lớn không thể biết hay đo lường được. Do đó, khi đối đầu trực tiếp với tự nhiên, “năng lực” tương phản sẽ quay trở lại, theo định luật đối nghịch, tự nhiên sẽ đối đầu trực tiếp lại vậy. Và khi đó, tâm không những không trở nên thuần thục, hiền thiện mà còn sẽ dữ dội, nổi loạn hơn. Phát sinh sự dữ dội, nổi loạn có nghĩa là trong tâm bị sinh bệnh vậy. Khi trong tâm bị bệnh thì có thể dễ dẫn đến vấn đề tâm thần (cittavedanā). Vì vậy, dùng phương pháp cứng rắn phi pháp đàn áp, ngăn cấm để cho tâm của mình trở nên thuần thục, hiền thiện cũng không phải là phương pháp đúng đắn, chơn chánh. Cũng chỉ là một phương pháp cực đoan mà thôi. Phương pháp cực đoan này nằm trong pháp hành “attakilamathānuyoga: phương pháp hành hạ làm mệt mỏi sắc thân”.

Vì vậy, điều nói rằng rất khó giáo huấn tâm, đó cũng chính là tâm vậy. Do đó cho nên, trong việc giáo huấn để cho tâm trở nên thuần thục, hiền thiện cần phải thích hợp với “majjhimapaṭipadā: phương pháp thực hành quân bình, trung dung”. Bởi chỉ khi dùng thực hành quân bình, trung dung, hài hòa thích hợp thì đó mới là phương pháp đúng và tâm sẽ trở nên thuần thục, hiền thiện. Phương pháp giáo huấn thích hợp với pháp hành quân bình, trung dung, hài hòa đó chính là phương pháp thực hành chánh niệm khắng khít (satipaṭṭhāna) thiền quán nơi đề mục tâm “cittānupassanā: tâm làm đối tượng quan sát”.

Căn cứ vào phương pháp theo quan sát tâm (cittānupassanā), thì khi giáo huấn tâm điều cần thiết là biết được bản chất tự nhiên của tâm vậy. Bởi một khi biết được bản chất tự nhiên của tâm, thì mới có thể giáo huấn tâm trở nên thuần thục, hiền thiện được, bằng cách sử dụng pháp hành quân bình, trung dung, hài hòa (majjhimapaṭipadā). Bản chất tự nhiên của tâm, theo như trong bài kệ pháp bảo trên thì tâm rất mau lẹ. Chỉ trong một cái búng tay (tích tắc) có thể có đến 1.000 tỷ lần (một ngàn tỷ) lần tâm sinh-diệt. Tâm có thể mau lẹ, nhanh chóng đến như vậy.

Ngoài ra, tâm nó muốn đi đâu là đi. Không thể ngăn cấm rằng “đây là đối tượng không tốt, không nên đi”, sơ hở một chút là chạy đi liền. Cũng không thể khuyến khích rằng “đây là đối tượng tốt, hãy trú ở trên đối tượng này”, nó có thể đột ngột bỏ chạy khỏi đối tượng mà mình sắp đặt. Thỉnh thoảng có khi lại không biết tâm của mình đi đến đâu. Bởi thật ra, đã là tâm khi đặt để nó nơi đâu nó muốn ở thì ở, không muốn thì không ở nơi đó; trong khi không đặt để nó đến đó, nó không muốn thì không ở; còn nó muốn thì nó vẫn ở đó. Và ngoài ra nữa, mình có muốn đặt để thì đặt để, tâm nó muốn ở sao thì ở. Nó muốn đi sao thì đi. Tự bản chất của nó, tự mong muốn của nó, nó là một bậc Đế Vương. Những điều này chính là bản chất tự nhiên của tâm vậy.

Nếu không biết thì khó, còn nếu biết thì dễ. Sự không biết chính là avijjā: vô minh; sự biết chính là vijjā: trí tuệ. Do vậy, mình phải biết tâm của chính mình bằng cách dùng chánh niệm luôn luôn canh gác theo dõi nó. Nó muốn đi đâu hãy để nó đi, không sao cả; chỉ cần phải biết rõ là nó đang đi. Khi nó đi đến đối tượng tham muốn (lobha), thì phải biết rõ nó đang đi đến đối tượng tham muốn; hoặc khi nó đi đến đối tượng sân hận (dosa), thì cũng phải biết rõ nó đang đi đến đối tượng sân hận; hoặc mỗi khi nó đi đến đối tượng si mê (moha), thì cũng phải biết rõ nó đang đi đến đối tượng si mê. Ngoài ra, mỗi khi tâm đi đến một đối tượng thiện tốt (kusala) nào đó, thì cũng phải biết rõ tâm đang đi đến một đối tượng thiện tốt nào đó. Thậm chí tệ nhất đến nỗi một khi không biết tâm của mình đang đi đâu, đang đến đâu chăng nữa, thì tính chất không biết ấy cũng cần phải được cố gắng biết rõ bởi chánh niệm. Khi ấy, tâm của mình sẽ không thể lừa gạt mình được nữa. Và một khi tâm tham sinh khởi lên ở trong mình, thì bắt đầu biết rõ tâm tham đang sinh khởi lên; hoặc một khi tâm sân sinh khởi lên ở bên trong mình, thì cũng bắt đầu biết rõ tâm sân đang sinh khởi lên; hoặc một khi tâm si sinh khởi lên ở bên trong mình, thì cũng bắt đầu biết rõ tâm si đang sinh khởi lên. Hoặc khi một tâm thiện nào đó sinh khởi lên, thì cũng bắt đầu biết rõ một tâm thiện nào đó đang sinh khởi lên. Thậm chí đến ngay cả khi không biết tâm gì đang sinh khởi lên, cũng biết rõ không biết tâm gì đang sinh khởi. Mặc dù không biết đi nữa, nhưng phải biết rõ có một tâm đang sinh khởi lên, mà không thể nói rõ ràng chắc chắn được tâm ấy đang biết, hướng đến một đối tượng nào đó. Chánh niệm khắng khít (satipaṭṭhāna) theo quan sát (nhìn) tâm (cittānupassanā) có nghĩa điều quan trọng và chính yếu nhất là không phải hướng đến phần đối tượng mà tâm của ta đang biết điều gì; điều chính yếu và quan trọng là hướng đến phần tâm, chủ thể đang biết đối tượng ấy. Nghĩa là chủ thể tâm biết, hướng đến đối tượng kia trở lại làm đối tượng của chánh niệm khắng khít theo quan sát tâm vậy. (Nói một cách dễ hiểu đó là: dùng chánh niệm khắng khít, bám chặt để theo quan sát (nhìn) tâm, có nghĩa là không cần phải biết tâm mình đang suy nghĩ, đang biết, đang hướng đến điều gì, đối tượng gì, điều đó không quan trọng; điều quan trọng là phải biết được chủ thể tâm ấy đang khởi sinh lên suy nghĩ, đang khởi sinh lên biết, đang khởi sinh lên hướng đến một điều, một đối tượng, đó là điều quan trọng cần phải biết rõ. Nói tóm lại chủ thể tâm đang suy nghĩ, đang biết, đang hướng đến ấy, trở thành đối tượng chính yếu và quan trọng của việc quan sát, quán xét, nhìn tâm vậy. Lời người dịch).

Khi ấy, đối tượng của nó (chánh niệm khắng khít, bám sát) chỉ có tâm biết mà thôi. Bởi thật ra, trong phần đối tượng và phần chủ thể biết đối tượng, một khi lấy phần chủ thể biết đối tượng làm trọng tâm chính yếu để quan sát, quán niệm, thì theo một cách tự nhiên nhất là phần đối tượng của phần chủ thể biết ấy tự động có luôn ở trong đó. Phần chủ thể biết đối tượng đó chính là tâm vậy. Bởi vì đã là tâm thì một khi nó sinh khởi lên thì không thể tách rời đối tượng được, cho nên ngay khi nói đến tâm sinh khởi lên, thì cũng không thể nào tách biệt hay tránh khỏi sự dính dáng đến một đối tượng nào đó của tâm đang sinh khởi lên để biết, hướng đến đối tượng ấy. Vì vậy, khi lấy tâm làm chính yếu (đối tượng chính) rồi quan sát bởi chánh niệm, thì đối tượng của tâm ấy cũng tự động được quan sát bởi cách thức không phải chính yếu (đối tượng phụ). Trong sự quan sát như vậy, khi 3 nhân Thánh đạo thiền định gồm sati (niệm), vīriya (cố gắng), samādhi (định) chưa có năng lực, tuy “cái biết” còn mông lung, mơ hồ; nhưng một khi 3 nhân Thánh đạo có năng lực, thì đồng thời “cái biết” sẽ bắt kịp quan sát rõ ràng lên vậy. Trong 3 nhân Thánh đạo ấy, theo như “Satipaṭṭhāna: Niệm khắng khít, bám chặt” thì sati: niệm là chính yếu nhất. Khi sati là chính yếu thì đồng thời cũng cần làm cho vīriya: cố gắng có năng lực đạt đến nỗ lực không ngừng nghỉ đồng thời cũng trở nên quan trọng vậy. Khi sati và vīriya có năng lực mạnh mẽ, thì samādhi: định tâm sẽ sinh lên trong ấy; khi có samādhi sinh lên trong ấy, thì paññā: trí tuệ cũng sinh lên theo; một khi có trí tuệ sinh lên trong đó thì “cái biết” sẽ rõ dần rõ dần lên vậy. Và khi ấy, ‘tâm trước’ của mình dù chạy đi đến đâu chăng nữa, thì ‘tâm sau’ của mình sẽ biết rõ được nó chạy đi đến đó. Đến đây, sẽ biết rõ ‘tâm trước’ đối tượng bị quan sát của mình và ‘tâm sau’ chủ thể quan sát, cả 2 loại ấy luôn luôn sinh-diệt. Chính sự thấy biết trở nên như vậy gọi là có được trí tuệ biết “yathābhūta: hiện hữu rõ ràng như vậy” (yathābhūtañāṇa: trí tuệ như thật, có sao biết vậy).

Quan sát cho đến khi thấy biết rõ sinh-diệt, và một khi có được trí tuệ như thật, thì sẽ nhàm chán nơi các pháp tạo tác, thôi thúc (saṅkhāra), và đó là khi trí tuệ “nibbidā: nhàm chán phát sinh lên”. Và khi nào trí tuệ nhàm chán (nibbidāñāṇa) phát sinh lên, thì đồng thời cũng là lúc tâm sẽ trở nên thuần thục, hiền thiện. Sau đó, đến cuối cùng của sinh-diệt sẽ chứng ngộ trực tiếp Niết-bàn, diệt được nhân sinh khổ của bậc Thánh đó là tham ái do trí tuệ diệt tham ái (virāgañāṇa) phát sinh lên vậy. Khi ấy, tâm đã trở nên thuần thục, hiền thiện hoàn toàn; đã chứng đạt được Thánh đạo tuệ, Thánh quả tuệ và sự an lạc Niết-bàn rồi vậy.

Bài kệ pháp bảo này, là một bài pháp nêu ra phương pháp chánh niệm khắng khít bám sát theo quan sát tâm có thể đạt đến 3 loại trí tuệ gồm trí tuệ thấy biết như thật (yathābhūtañāṇa), trí tuệ nhàm chán các pháp có cấu tạo, thôi thúc (nibbidāñāṇa) và trí tuệ đoạn diệt được tham ái (virāgañāṇa), là nguyên nhân đưa đến chứng ngộ Á-rá-hán Thánh quả trực tiếp ngay hiện tại này.

Vị Tỳ khưu aññatara sau khi nghe được bài kệ pháp bảo này từ đức Phật đã quay trở lại ngôi thiền viện tại làng Mātika. Bây giờ vị Tỳ khưu aññatara không còn kinh sợ bà Mātikamātā nữa. Trong người vị ấy đã có khí giới tốt rồi. Khí giới tốt ấy được đức Phật trực tiếp trao cho đó chính là phương pháp chánh niệm khắng khít, bám chặt theo quan sát tâm vậy (cittānupassanā satipaṭṭhāna). Vị Tỳ khưu aññatara đã trú ngụ tại thiền thiện và nương vào vật thực từ bà Mātikamātā cúng dường, chỉ nội trong 2-3 ngày đã đoạn diệt hoàn toàn các phiền não trầm luân trở thành một bậc Thánh Á-rá-hán với đầy đủ 6 phép thần thông và 4 tuệ phân tích.

Sau đó, vị Tỳ khưu aññatara suy xét: “Hiện tại do nương vào bà Mātikamātā mà ta đã chứng đạt thành bậc Thánh Á-rá-hán, không biết trong sinh tử luân hồi bà Mātikamātā đã từng là chỗ tựa của ta không?” nên dùng thần thông quán xét và biết được trong quá khứ bà Mātikamātā đã từng 99 kiếp liên tiếp là người vợ của mình, vì đem tâm yêu thương một người đàn ông khác mà đã đang tâm giết chết chồng mình (ta). Khi ấy, vị Tỳ khưu aññatara, bậc Thánh Á-rá-hán ấy đã phát sinh rúng động theo pháp (dhammasaṃvega). Cũng trong thời gian ấy, bà Mātikamātā khi đang ở trong nhà của mình cũng đang quán xét đến tình hình của vị Tỳ khưu aññatara (không rõ họ tên), thì biết được vị ấy đã chứng đạt thành bậc Thánh Á-rá-hán và cũng thấy được đang phát sinh rúng động theo pháp, do vì trong quá khứ suốt 99 kiếp chính mình đã từng giết chết vị ấy. 

Sau đó, bà Mātikamātā lại tiếp tục quán xét đến kiếp thứ 100 trong quá khứ, thấy biết vị Tỳ khưu aññatara này đã từng là chồng của mình, và lại thấy rằng trong kiếp ấy mình (bà Mātikamātā) đã vì chồng (Tỳ khưu aññatara) mà chịu hy sinh thân mạng. Khi bà Mātikamātā đang ở tại nhà mình, đã dùng thần thông tác bạch vị Tỳ khưu aññatara “xin Trưởng lão hãy tiếp tục quán xét lên thêm nữa”. Và khi vị Tỳ khưu aññatara với thiên nhĩ thông nghe được lời tác bạch ấy đã tiếp tục quán xét lên kiếp quá khứ thứ 100, cũng lại thấy biết được bà Mātikamātā với vai trò là người vợ của mình đã hy sinh thân mạng vì chồng (mình). Khi ấy, vị Tỳ khưu aññatara đã hoan hỷ những gì liên quan đến bà Mātikamātā, với ý nghĩ: “Ồ! quả thật bà Mātikamātā là người có ân nghĩa rất lớn đối với ta”. Vì vậy, vị ấy vẫn ở trong ngôi thiền viện của bà Mātikamātā, dùng thần thông, thuyết pháp về 4 Thánh đạo, 4 Thánh quả đến cho bà rồi tịch diệt Niết-bàn.

Câu chuyện này quả thật rất đặc biệt và kỳ lạ. Do đó các nhà lý luận, phê bình đã đúc kết “Chín chín (99) kiếp sống, giết hại chồng, giải thoát vào đạo quả”. (Nghĩa là dù trải qua 99 kiếp liên tục vì thương yêu người khác mà sát hại chồng mình, nhưng với pāramī và các pháp chủ đủ năng lực, thì những người hướng đến giải thoát, thực hành giới-định-tuệ đều có thể chứng ngộ 4 sự thật của bậc Thánh, chứng đạt được 4 Thánh đạo, 4 Thánh quả và Niết-bàn cao thượng vậy).

 

Trích từ Dhammapada Những Pháp Dẫn Đến Niết Bàn – Sư Hộ Giới (Rakkhitasīla Bhikkhu) dịch Việt theo Dhammapada nguyên tác tiếng Myanmar của tác giả U Shwe Aung

Các bài viết trong sách

Dhamma Nanda

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app