Luận Giải Về Nghiệp Phần I: Tử Và Tục Sinh – Chương Không Có Danh Sách Chờ Đợi Đối Với Việc Tái Sanh

Luận Giải Về Nghiệp

Phần I: Tử Và Tục Sinh

Chương Không Có Danh Sách Chờ Đợi Đối Với Việc Tái Sanh

Một lần nọ, tôi có đến nước Đức để dạy Thắng Pháp (Abhidhamma). Trong lớp học, có một học viên hỏi như sau: “Nhân bản vô tính có thể được giải thích dựa trên Thắng Pháp (Abhidhamma) không? Việc đó có thể xảy ra không?”

Tôi đã trả lời như sau: “Việc đó có thể xảy ra. Nếu các điều kiện cần thiết cho việc thụ thai hiện hữu, thì nó sẽ xảy ra, không quan trọng chế độ hay phương thức xảy ra là gì.”

Để cho việc thụ thai xảy ra, những  điều  kiện  này phải có mặt, nói chung: thường là ngay trước thời kinh nguyệt của người mẹ1. Phải có sự kết hợp của tinh trùng và trứng2. Và gantabba3 sẽ có mặt ở đó để được thụ thai.

Gantabba này ám chỉ cho cái gì? Nó là người vừa mới chết và sẵn sàng được sanh ra. Có nhiều quan điểm khác nhau ngay từ những thời cổ xưa về gantabba này. Một vài truyền thống cũng như một vài trường phái Phật giáo tin rằng linh hồn của người mới vừa chết phải đợi khoảng từ bảy cho đến 49 ngày để được đi tái sanh. Nhiều dân tộc có xu hướng suy nghĩ theo cách này. Ví dụ, người Tây Tạng tin rằng nó phải mất 49 ngày. Người Nhật cũng tin vào những linh hồn như vậy.

Vào năm 1997, tôi có  viếng thăm nước Nhật và có ghé Koyasan, nơi có khá nhiều tự viện. Tôi có gặp một tu sĩ người Nhật đang tụng đọc các bài chú cho những người chết. Tôi đã hỏi vị đó lý do tại sao. Vị đó trả lời rằng, tụng đọc để giúp cho những linh hồn đang sống trong các ngôi mộ, để hướng dẫn họ tìm một kiếp sống mới.

Tôi hỏi: “Đạo hữu có biết có được bao nhiêu linh hồn tìm được kiếp sống mới thông qua việc chú tụng của mình không?”

Vị đó trả lời: “Tôi không biết. Nhưng tôi phải tụng đọc theo truyền thống.”

Ở những nơi khác cũng vậy, mọi người tụng đọc trên người mới vừa chết, nghĩ rằng linh hồn đó đang tìm kiếm sự tái sanh. Mục đích của họ là giúp hướng dẫn cho gantabba đó vào kiếp sống mới. Tại Singapore và Mã-lai, một số người còn tụng đọc một vài bài Thắng Pháp (Abhidhamma) trên xác chết.

Nhiều người tại Miến Điện cho rằng, khi một người chết,  linh  hồn  hay  tâm  thức  (viññāṇa)  (được  gọi  là “bươm  bướm”1)  còn  vương  vấn  xung  quanh  ngôi  nhà trong bảy ngày.

Một vài người tin rằng lúc chết, linh hồn của người chết xuất ra để tìm nơi nó có thể bắt đầu cuộc sống mới. Vì chưa thể tìm được,  linh hồn nương trú tạm thời vào một đời sống tạm thời được gọi là antarābhava2. Họ nghĩ rằng người đó trở thành ma quỷ trong suốt thời gian này. Tôi nghĩ hầu hết mọi người đều xem đời sống của ma quỷ là giai đoạn này, tức là antarābhava này. Tuy nhiên, kiếp sống  của  ma  quỷ  là  kiếp  sống  của  một  ngạ  quỷ  (peta).

Chúng ta không thể nhìn thấy chúng sanh này được bằng mắt trần; cho nên, mọi người gọi nó là “linh hồn”. Tôi có biết một người có thể nhớ lại kiếp sống trước của mình là một ngạ quỷ (peta) – chứ không phải là một gantabba.

Nhớ về đời sống là một ngạ quỷ (peta)

Ngài là một tu sĩ người Miến, U Sobhana, bây giờ đã hơn 80 tuổi. Ngài đã từng ở tại San Francisco cùng với Sayadaw U Sīlānanda. Ngài đã kể cho tôi nghe về kiếp sống quá khứ của mình đã sống tại cùng một ngôi làng, nhưng ở một ngôi nhà khác: tức là trong kiếp sống quá khứ, một ngôi nhà; kiếp sống này, một ngôi nhà khác. Ngài có thể nhớ tên gọi của mình trong kiếp sống đó và lý do tại sao ngài chết. Ngài có thể nhớ mọi thứ: việc ngài mắc bệnh và được điều trị trong bệnh viện như thế nào. Nhưng ngài đã chết vì bệnh đó không thể chữa lành được. Ngài nhớ rằng mọi người mang xác của ngài đi và tổ chức lễ mai táng. Sau đó, ngài không thể nhớ cái gì đã xảy ra. Điều tiếp theo ngài nhớ được là ngài đã ngồi một mình dưới một cội cây trong rừng sâu. Không có ai xung quanh cả. Rồi ngài nghe ai đó gọi tên mình. Ngài đứng dậy để nhìn và thấy một người đàn ông quý phái đang cưỡi một con ngựa trắng.

“Hãy đi theo tôi.” Người đàn ông đó ra lệnh như vậy. Cho nên, ngài đi theo. Khi họ đi ra khỏi khu rừng, ngài thấy rằng họ đi vào một ngôi làng.

“Ồ, đây là làng của tôi.” Ngài thốt lên vì nhận ra nó từ kiếp trước.

Khi vào trong làng, người đàn ông chỉ vào một ngôi nhà và nói: “Hãy đi vào ngôi nhà đó đi.”

Ngài nhận ra rằng đó là ngôi nhà trước đây của mình. Mặc dầu ngài cố đi vào ngôi nhà, nhưng ngài không thể đi vào được vì không có ai cho ngài vào.

Người đàn ông lại bảo ngài: “Nếu không thể vào ngôi nhà đó được, thì hãy đi vào ngôi nhà này vậy.”

Và ngài đã sanh ra trong ngôi nhà đó trong kiếp hiện tại này.

Vì hai đời sống đó ở trong cùng một làng, nhiều người vẫn có thể nhớ được ngày chết của ngài. Nếu tính luôn thời gian chín tháng trong bụng mẹ, thì có hai tháng cách khoảng giữa hai đời sống. Ngài nghĩ rằng trong suốt thời gian đó, ngài đã trở thành một ngạ quỷ (peta) ngay sau khi chết. Đó là lý do tại sao khi làm một chúng sanh khác, ngài có thể chứng kiến được chính tang lễ của mình – đi theo mọi người mang xác ngài đi thiêu. Rồi thấy mình ngồi một mình trong rừng sâu: đó là một ngạ quỷ (peta). Ngài đã không phải đang chờ đợi một kiếp sống mới.

Nhiều người là Phật tử nhưng vẫn tin vào đời sống trung chuyển này – họ có những quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, nếu họ nghiên cứu giáo lý của Đức Phật một cách cẩn thận, họ sẽ tìm thấy rằng Ngài đã dạy rằng tái sanh đến  kề  liền  sau  khi  cái  chết  xảy  ra.  Ngài  đã  giải thích    rằng    nó    là    hiện    tượng    vô    gián    duyên (anantarapaccayo)1.  Điều  này  có  ý  muốn  nói  rằng  tục sinh  đến  liền  ngay  sau  chết  mà  không  có khoảng cách nào giữa chúng. Ngay sau khi tâm tử (cuti) diệt đi, tâm tục  sinh  (paṭisandhi)  sanh  lên  ngay  lập  tức. Giống  như lấy dao chém nước, nước sẽ nhập vào lại ngay lập tức.

Không có trạng thái đợi chờ để tái sanh như trong danh sách chờ đợi. Việc này không giống như chuyện các du khách chưa có vé được để tên trong danh sách chờ đợi. Những chúng sanh ước ao được sanh vào thế giới loài người không phải cần có vé, hoặc không phải đợi chờ đến lượt của mình theo danh sách chờ đợi. Việc này không diễn ra hoặc không có hoạt động theo cách như vậy.

Không có khoảng cách giữa cái chết và kiếp sống liền kề

Thậm chí không có một giây đồng hồ ngắn ngủi ở giữa thời điểm một người qua đời và thời điểm người đó đi tái sanh. Nếu những yếu tố thích hợp hay thuận lợi có mặt, thì thông qua nghiệp lực, tâm tục sinh của người đó xuất hiện tức thời ngay tại nơi các yếu tố đó tồn tại – cho dầu nơi đó có cách xa đến độ nào.

Nó giống như việc phát sóng tín hiệu truyền hình, truyền thanh từ ngoại quốc vậy. Với dụng cụ và thiết bị thích ứng để nhận tín hiệu, hình ảnh và âm thanh sẽ xuất hiện  ngay  lập  tức.  Điều  này  cũng  như  vậy  cho  thai  bào mới  và  người  với  tâm  tử  (cuti  citta).  Khi  cái  tâm  cuối cùng này diễn ra – chỉ tồn tại trong một sát-na tâm với ba tiểu sát-na sanh, trụ và diệt1  – ở giai đoạn diệt của nó, tâm sanh lên tiếp theo sau đó không bị  gián đoạn, chính là gantabba, tức là yếu tố đi tục sinh. Nó xuất hiện ở nơi thích hợp hay hợp thời cho  việc tái sanh. Luôn luôn có một nơi thích hợp dành cho nó: thậm chí trong phòng thí nghiệm tạo ra những nhân bản vô tính.

Gantabba xuất hiện như thế nào

Trong  Giáo  Lý  Duyên  Khởi  (Paṭiccasamuppāda), Đức   Phật   đã   dạy   rằng   sanh   nghiệp   (tức   là   hành (saṅkhāra)) làm   duyên   cho   tâm   tục   sinh:   saṅkhāra paccayā  viññāṇaṃ2.  Rồi  trong  một  mối  quan  hệ  khác, Ngài  dạy  rằng  “Viññāṇa  paccayā  nāma-rūpaṃ”  (Thức duyên cho danh sắc). Ở đây, thức (viññāṇa) là yếu tố dẫn đầu – chứ không phải là yếu tố làm việc tạo sinh. Khi nó sanh lên, danh pháp (nāma) sanh lên cùng với nó kèm với sắc pháp do nghiệp tạo. Trong trường hợp này, danh pháp (nāma) chỉ cho các tâm sở (cetasika) mà thôi. Tất cả đều do nghiệp tạo.

Chúng ta phải bàn về hành (saṅkhāra) này vốn thuộc vào kiếp sống trước. Tâm (viññāṇa) quả mà nó tạo ra thì thuộc vào đời sống kế tiếp: Chúng ta gọi nó là sự tục sinh của đời sống mới. Hai kiếp sống này gặp nhau, có quan hệ với nhau như thế nào?

Các  bạn  thấy  rằng  chết  đi  theo  sau  cái  tâm  cuối cùng của một đời sống, tức là tâm tử (cuti citta). Nhưng cái giây phút cực kỳ quan trọng cuối cùng thì không phải là tâm tử. Tử (cuti) chỉ biểu hiện điểm kết thúc của dòng tâm cuối cùng giống như ánh lửa cuối cùng của cây nến vậy. Những đổng lực cận tử (maranāsanna javana) xảy ra trước  đó  mới  là  tiên  quyết.  Lý  do  những  đổng  lực (javana) này cực kỳ quan trọng là vì chúng nắm bắt đối tượng  cuối  cùng  vốn  do  nghiệp  (kamma)  tạo  ra1.  Đối tượng này tạo sinh ra sự tái sanh vì nó sẽ còn tiếp tục tồn tại cho đến kiếp sống kế tiếp mà không có sự gián đoạn. Với sự diệt đi của tâm tử (cuti citta), tâm tục sinh sanh lên,  do  nghiệp  (kamma)  tạo  ra.  Tuy  nhiên,  không  phải chỉ do một mình nghiệp (kamma), nó phải có những điều kiện hỗ trợ khác. Chúng là những yếu tố nào? Một trong những yếu tố đó là đối tượng cuối cùng do những đổng lực cận tử (maranāsanna javana) bắt lấy. Nó hoạt động với tư cách là một sự hỗ trợ. Nương tựa vào nó, tâm (viññāṇa) sanh lên. Nếu không có đối tượng để bám vào, không có tâm (citta) có thể tồn tại. Bản chất, hay đặc tính, của nó là biết cảnh. Điều không thể chối cãi được là chính nghiệp (kamma) tạo ra nó. Tuy nhiên, chỉ bằng cách bám vào đối tượng do nghiệp tạo này, nó mới có thể sanh lên, giống như nó phải bám chặt vào một sợi dây thừng vững chắc. Bằng không, không có sự tục sinh (paṭisandhi) nào có thể hiện hữu được.

Như vậy, đối tượng này thuộc vào cả hai kiếp sống. Nó  đã  bắt  đầu  trong  kiếp  sống  trước  và  tiếp  tục  trong kiếp  sống  mới,  giống  như  tạo  ra  một  chiếc  cầu  nối. Không có chiếc cầu này, chúng ta không thể tiếp tục đi vào đời sống kế tiếp.

Trong các cõi dành cho những chúng sanh ngũ uẩn, không chỉ có đối tượng mà còn sắc ý vật (vatthu-rūpa)2 cũng  phải  tồn  tại  để  làm  vật  nương  hay  nơi  nương  cho tâm. Điều này có nghĩa là phải có nơi nương cho tâm tục sinh  (paṭisandhi)  nương  vào.  Cho  nên,  bám  vào  đối tượng giống như là bám vào sợi dây phơi áo quần, tâm tục sinh cùng một lúc có thể nương vào sắc ý vật (vatthu- rūpa) giống như là dựa vào một chỗ ngồi. Với hai sự hỗ trợ này, tâm tục sinh (paṭisandhi) có thể thiết lập nên sự tồn tại cho chính nó. (Hãy lưu ý rằng không phải bất kỳ cõi hiện hữu nào cũng có sắc ý vật (vatthu-rūpa) làm nơi nương, đặc biệt là các cõi vô sắc (arūpa), tức là những nơi mà chúng sanh không có sắc pháp (rūpa).)

Như  vậy,  khi tâm  tử  diệt  đi,  tâm  (viññāṇa),  tức là tâm tục sinh, xuất hiện không có khoảng cách gián đoạn nào vì tiến trình tâm thức trôi chảy liên tục không gián đoạn. Đây là sự khởi đầu của một đời sống mới như đã được Đức Phật giảng giải.

*Bài trích trong cuốn Luận Giải Về Nghiệp của Thiền Sư Nandamalabhivamsa - Pháp Triều dịch Việt. Nguồn Vietheravada.
Các bài viết trong sách

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app