Vipassana in Prisons – History & Spread

Vipassana trong Tù – Lịch sử Truyền bá

First Course for Prisoners – Khóa thiền đầu tiên cho tù nhân

The doors of Vipassana meditation opened to prisons, when the then Home secretary of Rajasthan Government, attended a Vipassana course and decided to use this technique as an instrument of reform in jails. Millennia after the times of Emperor Asoka, where Vipassana meditation was widely used as an instrument of reform, the first Vipassana course was successfully completed in the Central Jail of Rajasthan.

Cánh cửa Vipassana đã mở ra cho các nhà tù từ khi Bộ trưởng Bộ Nội vụ của Chính Quyền bang Rajasthan, đã tham dự một khóa thiền Vipassana và quyết định sử dụng kỹ thuật này như một công cụ cải tạo trong nhà tù. Nhiều thiên niên kỷ trôi qua sau thời Hoàng đế Asoka, khi thiền Vipassana được ứng dụng rộng rãi như một công cụ cải tạo, khóa thiền Vipassana đầu tiên đã kết thúc thành công tại Nhà tù Trung tâm Rajasthan.

Challenge from Vinoba Bhave – Thử thách từ Vinoba Bhave

In the first few years after Goenkaji came from Burma to teach in India, a course was arranged by the daughter-in-law of Mahatma Gandhi at Sevagram Ashram in which, fifteen of Gandhiji’s colleagues participated.

Trong vài năm đầu sau khi Goenkaji từ Miến Điện đến giảng dạy tại Ấn Độ, một khóa thiền được tổ chức bởi người con dâu của Mahatma Gandhi tại Sevagram Ashram, trong đó có mười lăm đồng sự của Gandhiji đã tham dự.

They were very pleased with the course. After it was over, they took Goenkaji to meet Vinoba Bhave, a saintly person of India, who lived nearby.

Họ rất hài lòng với khóa thiền. Sau khi kết thúc, họ đưa Goenkaji đến gặp Vinoba Bhave, một vị thánh sống của vùng Ấn Độ sinh sống gần đó.

He was quite enthusiastic about Vipassana and said that if it was beneficial and result-oriented, it must spread in the country. But he added, “I won’t accept this Vipassana unless it gives good results to two segments of the society: hardened criminals and school children.” Goenkaji replied, “I am certain it will be helpful. I am a newcomer to the country; I have brought this valuable jewel of Dhamma from outside. Now, let us make use of it for the country. Please make the arrangements.”

Ông khá hào hứng về Vipassana và nói rằng nếu đem lại lợi lạc và hướng tới kết quả, phương pháp này cần được lan tỏa khắp đất nước. Nhưng ông nói thêm, “Tôi sẽ không chấp nhận Vipassana này trừ khi phương pháp mang lại kết quả tốt cho hai thành phần của xã hội: tội phạm cực đoan và học sinh.” Goenkaji đáp, “Tôi chắc chắn nó sẽ hữu ích. Tôi là người mới đến đất nước này; Tôi đã mang viên ngọc quý đầy giá trị này của Dhamma từ nơi khác. Bây giờ, chúng ta hãy tận dụng viên ngọc này cho đất nước. Xin hãy tổ chức các khóa thiền.”

Vinoba Bhave arranged a course for teenagers. As with the many courses for children since then, this too was successful and he was very happy. Then he arranged for a course to be held in Gaya Jail. But the day before the course started, the jail officials informed Goenkaji would have to stay outside the prison. Goenkaji said, “This is not possible. Vipassana is a deep operation of the mind, and I am like a surgeon. I must be there twenty-four hours a day. Something might happen, and I am responsible. I must stay inside.” They insisted, “According to the prison rules, you cannot stay inside.” Goenkaji pleaded with them, “Then give me a prison sentence of ten days!” But they wouldn’t agree. Vinobaji wanted to make some other arrangements, but before he was able to do so, he passed away.

Vinoba Bhave đã sắp xếp một khóa thiền dành cho thanh thiếu niên. Cũng như nhiều khóa thiền dành cho trẻ em kể từ đó, các khóa thiền được tổ chức thành công và ông rất hạnh phúc. Sau đó, ông ấy đã tổ chức một khóa thiền tại nhà tù Gaya. Nhưng một ngày trước khi khóa thiền bắt đầu, các quan chức nhà tù thông báo rằng Goenkaji sẽ phải ở bên ngoài nhà tù. Goenkaji nói, “Điều này là không thể. Vipassana là một cuộc giải phẫu của tâm, và tôi giống như một bác sĩ phẫu thuật. Tôi phải ở đó hai mươi bốn giờ một ngày. Vài điều có thể xảy ra và tôi có trách nhiệm. Tôi phải ở lại trong tù.” Họ khăng khăng, “Theo quy định của nhà tù, ông không thể bước vào bên trong khu vực nhà tù.” Goenkaji đã cầu xin họ, “Thế hãy cho tôi một án tù mười ngày!” Tuy nhiên họ không đồng ý. Vinobaji muốn thực hiện một số thỏa thuận khác, nhưng trước khi ông có thể, ông đã qua đời.

Fortunately, a few years later, the then Home Secretary of Rajasthan, Ram Singh, came to a course in Jaipur. He was very keen. He said: “This must be tried with criminals!” He also heard about the challenge from Vinobha Bhave. He organized the first courses, which were held in the Jaipur Central Jail; the rules were amended to permit Goenkaji to stay inside the prison for the full ten days. So this was how the courses in prisons began.

May mắn thay, vài năm sau, Bộ trưởng Bộ Nội vụ của Rajasthan, Ram Singh, đã đến một khóa thiền ở Jaipu. Ông ấy rất thích thú. Ông ấy nói: “Nhất định phải thử nghiệm phương pháp này trên tội phạm!” Ông ta cũng nghe về thử thách từ Vinobha Bhave. Ông đã tổ chức các khóa thiền đầu tiên, tại Nhà tù Trung tâm Jaipur, các quy tắc đã được sửa đổi để cho phép Goenkaji ở trong nhà tù trong mười ngày. Vì vậy, đây là cách các khóa thiền trong tù bắt đầu.

First Vipassana Course in Prison – Khóa thiền Vipassana Đầu Tiên trong Tù

(The following excerpt refers to the first Vipassana course in an Indian prison. The course was conducted by Mr. S.N. Goenka at the Jaipur Central Jail in October, 1975, and was arranged by Mr. Ram Singh, who was at that time, the Home Secretary of the State of Rajasthan. The following narration is written by him.)

(Đoạn trích sau đây nói về khóa thiền Vipassana đầu tiên trong một nhà tù tại Ấn Độ. Khóa thiền được thực hiện bởi Ngài S.N. Goenka tại nhà tù trung tâm Jaipur vào tháng 10 năm 1975 và được Ngài Ram Singh tổ chức, lúc đó là Bộ trưởng Bộ Nội vụ của bang Rajasthan. Lời tường thuật sau đây được viết bởi ông.)

The first course of Vipassana conducted by Goenkaji in a prison was in l975 at the Central Jail of Rajasthan. When I was the Home Secretary of that state, I had myself undertaken a Vipassana course, and experienced a profound change in myself. On the fourth day of my course, I felt that Vipassana was a technique which could solve not only individual problems but also problems of society, and could bring reform in government as well. On the evening of the fourth day, I met Goenkaji and shared my reflections with him. I asked him whether this technique could be a tool to change the system in government. He agreed, and I immediately asked whether we could arrange to hold a course in a jail. He was very positive and told me he would come if I arranged it. This was a big challenge!

Khóa thiền Vipassana đầu tiên do Goenkaji thực hiện trong một nhà tù là vào năm 1975 tại Nhà tù Trung tâm Rajasthan. Tôi là Bộ trưởng Bộ Nội vụ của tiểu bang đó, tôi đã tự mình tham gia khóa thiền Vipassana và tự mình kinh nghiệm một sự thay đổi sâu sắc. Vào ngày thứ tư của khóa học, tôi cảm thấy Vipassana là một kỹ thuật có thể giải quyết không chỉ các vấn đề cá nhân mà còn cả vấn đề của xã hội, và có thể mang lại cải cách tốt cho chính phủ. Vào tối ngày thứ tư, tôi đã gặp Goenkaji và chia sẻ suy nghĩ của tôi với Ngài. Tôi hỏi Ngài rằng liệu kỹ thuật này có thể là một công cụ để thay đổi bộ máy nhà nước không. Ngài liền đồng ý, và tôi ngay lập tức hỏi liệu chúng tôi có thể sắp xếp để tổ chức một khóa thiền trong tù không. Ngài rất lạc quan và nói với tôi rằng Ngài sẽ đến nếu tôi sắp xếp được. Đây là một thách thức lớn!

I set about talking to the authorities concerned-the Chief Minister, the Chief Secretary, the jail officials. Initially everybody was very skeptical, but finally a decision was taken to make an experiment!

Tôi bắt đầu nói chuyện với các đại diện có thẩm quyền – từ Ngài Thống Đốc, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, các quan chức cai tù. Ban đầu tất cả đều rất hoài nghi, nhưng cuối cùng họ đã quyết định làm một thử nghiệm!

The real difficulty came when Goenkaji arrived in Jaipur for the course. I had to tell him that it would not be possible for him to stay in the jail; he was to stay in a beautiful bungalow outside the jail instead. He said he had to stay inside the jail twenty-four hours a day, because Vipassana is a deep operation, and he is like the surgeon. The difficulty was the jail manual. Only those who had been sentenced to imprisonment or those under trial or members of the jail staff could stay in the jail. I posed the problem to Goenkaji and he said, “Sentence me!” I was aghast, shocked; how could my Teacher be sentenced to imprisonment? The legal department was consulted and it seemed there was no solution. We issued administrative instructions and resolved the problem.

Khi Goenkaji đến Jaipur để dạy khóa thiền, Ngài đã gặp khó khăn thực sự. Tôi buộc phải báo rằng Ngài sẽ không thể ở trong tù; thay vào đó là một ngôi nhà gỗ xinh đẹp phía ngoài trại giam. Ngài nói rằng Ngài phải ở trong nhà tù trong suốt hai mươi bốn giờ một ngày, bởi vì Vipassana là một cuộc giải phẫu sâu sắc, và Ngài giống như bác sĩ phẫu thuật. Vấn đề ở đây là quy định của nhà tù. Chỉ những người đã bị kết án hoặc những người bị xét xử hoặc thành viên của nhân viên trại giam mới có thể ở trong tù. Tôi đặt vấn đề với Goenkaji và Ngài nói, “Hãy kết án tôi!” Tôi kinh hãi, sốc; làm thế nào Thiền sư của tôi có thể bị kết án? Pháp lý can thiệp nhưng dường như không có giải pháp. Cuối cùng, chúng tôi đã ban hành chỉ dẫn từ chính quyền và vấn đề đã được giải quyết.

Goenkaji was allowed to stay in the jail, in a makeshift room in the jail dispensary. Another problem came when the course was just about to start. At that time ankle locks and handcuffs were used for hardened criminals. Four such prisoners were brought into the meditation hall bound in these iron handcuffs and ankle locks. Goenkaji was walking nearby and when he saw this, he was amazed. He asked me what was going on. I told him these were hardened criminals. He exclaimed, “How can people in chains be put before me? This cannot happen. Remove the chains!”

Goenkaji được phép ở lại trong tù, ở một phòng tạm trong trạm y tế của nhà tù. Một vấn đề khác xảy ra khi khóa thiền chỉ mới bắt đầu. Vào thời điểm đó, xích chân và còng tay được dùng cho những tội phạm nghiêm trọng. Có bốn tù nhân được đưa đến thiền đường trong tình trạng như thế. Goenkaji đang tiến lại gần và khi Ngài thấy điều này, Ngài đã rất đỗi kinh ngạc. Ngài hỏi tôi chuyện gì đang xảy ra. Tôi nói với Ngài rằng đó là những tội phạm nghiêm trọng. Ngài thốt lên, “Làm sao mà có thể để họ xiềng xích trước mắt tôi như thế?” Điều này không thể xảy ra. Xin hãy tháo xích.”

But the Inspector General of Prisons (IG) said that the security in the jail was his responsibility, and he could not remove the ankle chains or the handcuffs. However, Goenkaji was firm. He said he could not give Dhamma with people sitting before him in chains-he had come to remove the chains. The IG told him he could remove the chains from within, but not the outside chains! Goenkaji insisted that those who were meditating must not be in chains. This was a big dilemma, a big problem!

Nhưng Ngài Tổng Thanh Tra Nhà Tù (IG) nói rằng ông ấy có trách nhiệm đảm bảo an ninh trong nhà tù, và ông không thể tháo xích ra được. Tuy nhiên, Goenkaji chắc chắn. Ngài nói Ngài không thể truyền Dhamma cho những người ngồi trước mặt Ngài khi đang trong xiềng xích – và Ngài đã tự tay tháo xích cho tù nhân. Ngài Tổng Thanh Tra Nhà Tù (IG) nói với Goenkaji ông có thể tháo bỏ xiềng xích từ bên trong, nhưng không thể tháo xiềng xích bên ngoài! Goenkaji kiên quyết rằng những tù nhân đó phải được thả xích khi đang hành thiền. Đó là một nan đề lớn, một vấn đề lớn.

The IG was a very experienced officer. He asked me not to force him to relax security requirements for those prisoners. He said any one of them might try to be a hero, and strangle me or Goenkaji to death in a split second. We discussed the problem and finally came to an agreement to remove the chains and fetters. An armed guard would be kept ready at a strategic point to shoot the criminal if he started to advance menacingly. I told the IG to ensure that any mishap or panic shooting did not take place.

IG là một quan chức rất giàu kinh nghiệm. Ông đã yêu cầu tôi đừng ép ông nới lỏng các yêu cầu về an ninh cho những tù nhân đó. Ông nói không ai trong số họ là anh hùng cả, và họ có thể sẽ bóp cổ tôi hoặc Goenkaji cho đến chết chỉ trong tích tắc. Tôi đã thảo luận các vấn đề và cuối cùng đi đến một thỏa thuận là tháo bỏ gông xích. Một đội cảnh vệ sẽ chuẩn bị sẵn sàng cho thời điểm bắn phạm nhân nếu kẻ nào đó bắt đầu xông lên có dấu hiệu đe dọa. Tôi nói với IG rằng hãy đảm bảo rằng không để diễn ra vụ bắn nhầm hoặc xả súng nào.

The chains and locks were removed. Goenkaji was pleased. The course started. I sat close by. The IG stayed out of the hall but remained very close. My eyes were fixed on the “Four”, heart throbbing and deep anxiety within! But every passing moment was a relief unbounded. As Goenkaji started chanting, his metta [loving kindness] was flowing profusely. The red-hot eyes of the criminals who were the cause of so much turmoil changed and their faces beamed; tears streamed down their cheeks. Tears rolled down my face also; it was a rare moment filled with joy after such high tension. The efficacy of Vipassana was established! Goenkaji’s narration of Angulimala’s story flashed in my mind.

Những gông xiềng được gỡ bỏ. Goenkaji hài lòng. Khóa thiền đã bắt đầu. Tôi ngồi cạnh bên. Ngài IG ở bên ngoài thiền đường nhưng với khoảng cách rất gần. Đôi mắt tôi chú ý vào “Đại Tứ”, tim đập thình thịch và bên trong đầy lo sợ! Nhưng tất cả khoảnh khắc trôi qua là sự giải thoát vô bờ. Khi Goenkaji bắt đầu tụng niệm, metta của Ngài [lòng từ ái] đang tuôn tràn. Đôi mắt của các phạm nhân đỏ au, những kẻ gây ra nhiều nhiều xáo trộn đã thay đổi và gương mặt họ sáng ngời; dòng nước mắt tuôn dài trên má. Nước mắt cũng tuôn dài trên gương mặt tôi; một khoảnh khắc hiếm hoi đầy lòng yên vui sau chừng ấy căng thẳng. Đây là kết quả của Vipassana! Lời kể của Goenkaji và câu chuyện kể về Angulimala chợt lóe lên trong tâm tôi.

There was another event which was deeply moving. There were two condemned prisoners awaiting execution of the death sentence. They couldn’t be accepted in the course. During his morning round, Goenkaji passed through their cells and decided that they could be given Anapana and Vipassana in the cells by loudspeaker from the hall and we agreed. They started meditation, made great progress, and felt happy. They listened to the discourses in the cells, as did many others. We had arranged the relay of the discourses throughout the entire jail campus.

Có một sự kiện cảm động khác. Có hai tù nhân bị tuyên án chờ thi hành án tử hình. Họ không được chấp nhận tham gia khóa thiền. Trong suốt một vòng dạo quanh buổi sáng, Goenkaji đi qua các phòng giam của họ và đề xuất dạy Anapana và Vipassana trong phòng giam bằng loa phát thanh từ thiền đường và chúng tôi đã đồng ý. Họ bắt đầu thực hành thiền, họ đã làm rất tốt, và họ đã thấy hạnh phúc. Họ đã lắng nghe những bài pháp thoại trong phòng giam, như những tù nhân khác. Chúng tôi đã phát chuỗi những bài pháp thoại trên khắp khuôn viên nhà tù.

After the course was over, one of the condemned prisoners sent me a message that he had decided to withdraw his mercy petition to the President of India. He was ready to die. He now had Dhamma and felt totally fearless of his impending death! In the meantime his petition had been rejected, and the day of execution by hanging had been fixed. I was invited to witness the sad event. The prisoner came out of the cell smiling and in high spirits. He thanked the jail staff and went to the gallows with a cheerfulness never witnessed before.

Sau khi khóa thiền kết thúc, một trong những phạm nhân bị kết án gửi cho tôi một lời nhắn rằng anh quyết định rút lại thỉnh nguyện ân xá tới Ngài Tổng Thống Ấn Độ. Anh sẵn sàng chết. Bây giờ anh đã có Dhamma và cảm thấy không còn sợ hãi với cái chết sắp đến! Trong thời gian đó đơn thỉnh nguyện ân xá của anh bị từ chối, và ngày thi hành án treo cổ đã được ấn định. Tôi được mời đến để chứng kiến sự kiện đau buồn này. Người phạm nhân bước ra khỏi phòng giam đang mỉm cười và tinh thần phấn chấn. Anh cảm ơn nhân viên trại giam và bước đến giá treo cổ với niềm hân hoan chưa từng thấy.

Spread of Vipassana in Prisons around the World – Sự Truyền bá Vipassana trong những Nhà tù trên khắp Thế giới

India – Ấn Độ

The story began nearly 30 years ago in India. The first Vipassana courses in jails were conducted by Goenkaji in 1975 and 1977 for 120 inmates at the maximum-security Central Jail in Jaipur at the invitation of Mr. Ram Singh, then Home Secretary to the Government of Rajasthan. A third course for senior police officers and jail officials was also held at the Police Academy in Jaipur. Despite these first successful courses, no further prison courses were taught for nearly 15 years. Then in 1990 and 1991, seven more prison courses were held in the states of Rajasthan and Gujarat. These courses were the subject of several sociological studies conducted by the Gujarat State Department of Education and the University of Rajasthan. The research indicated definite positive changes of attitude and behavior in the participants, demonstrating that Vipassana can help criminals become wholesome members of society.

Câu chuyện bắt đầu gần 30 năm về trước tại Ấn Độ. Khóa thiền Vipassana đầu tiên trong nhà tù được giảng dạy bởi Goenkaji năm 1975 và 1977 cho 120 tù nhân ở Nhà Tù Trung Tâm được bảo toàn cao nhất ở Jaipur với lời mời của Ngài Ram Singh, sau là Bộ trưởng Bộ Nội Vụ của Chính quyền Bang Rajasthan. Khóa thiền thứ ba cho thanh tra cảnh sát cao cấp và quan chức khác trong nhà tù được tổ chức tại Học Viện cảnh sát ở Jaipur. Mặc dù các khóa thiền ban đầu này thành công, nhưng sau đó không có khóa thiền cho tù nhân nào được tổ chức tại Bang Rajasthan và Gujarat. Những khóa thiền này là đề tài của một số nghiên cứu xã hội học được tiến hành bởi Bộ Giáo Dục của Bang Gujarat và Đại học Rajasthan. Nghiên cứu đã chỉ ra những thay đổi tích cực nhất định về thái độ và hành vi của những người tham gia, và chỉ ra rằng Vipassana có thể giúp tội phạm trở lại thành viên lành mạnh của xã hội.

In November 1993, a ten-day course was conducted for 96 inmates and 23 jail staff at Tihar Jail in New Delhi, one of the largest jails in Asia, housing approximately 10,000 inmates. The following January, a second course for 300 inmates was conducted by six assistant teachers. Three months later in April 1994, the largest Vipassana course held up to then was conducted by Goenkaji and ten assistant teachers for over 1,000 inmates. After its successful completion a permanent center for Vipassana was established inside the jail itself. Since then, ten-day Vipassana courses have been conducted twice monthly at Tihar Jail and less regularly at more than 15 other jails in India.

Vào tháng 11 năm 1993, khóa thiền 10 này được tổ chức cho 96 tù nhân và 23 nhân viên tại Nhà Tù Tihar ở New Delhi, một trong những nhà tù lớn nhất châu Á, là nơi cư ngụ của gần 10.000 tù nhân. Tiếp đó vào tháng Một, khóa thiền thứ hai cho 300 tù nhân được tổ chức bởi sáu vị thiền sư phụ tá. Ba tháng sau đó vào tháng Tư 1994, khóa thiền Vipassana lớn nhất đến thời điểm đó được tổ chức bởi Goenkaji và mười thiền sư phụ tá cho hơn 1.000 tù nhân. Sau những thành công đạt được họ đã khánh thành một trung tâm cố định cho Vipassana bên trong nhà tù. Từ đó trở đi, khóa thiền mười ngày được tổ chức hai lần mỗi tháng tại Nhà Tù Tihar và ít hơn một chút ở 15 nhà tù khác tại Ấn Độ.

In 1997, 75 Vipassana courses were conducted in Indian jails. At one point there were two permanent Vipassana centers in Indian jailsone at Tihar and the other at Nasik Jail in Maharashtra where Mohandas Gandhi had once been imprisoned. Because of administrative changes, the Vipassana program at Nasik Jail has been cancelled. However, in Delhi , Dhamma Tihar thrives and twenty-day courses are being held there on a regular basis. In 2001, there were a total of 39 jail courses in India with 1,420 inmates attending: 978 new and 442 old.

Năm 1997, 75 khóa thiền Vipassana được tổ chức tại các Nhà tù Ấn Độ. Thời điểm đó, có hai trung tâm Vipassana cố định tại Nhà tù Ấn Độ tại Tihar và trung tâm còn lại ở Nhà tù Nasik ở Maharashtra nơi Mohandas Gandhi một lần từng bị giam giữ. Do những thay đổi trong cách tổ chức, Chương trình Vipassana tại Nhà tù Nasik bị hủy bỏ. Tuy nhiên, ở Delhi, Dhamma Tihar phát triển mạnh và khóa 20 ngày được tổ chức đều đặn. Năm 2001, có tất cả 39 khóa thiền trong tù ở Ấn Độ với 1.420 tù nhân tham dự: 978 người là thiền sinh mới và 442 người là thiền sinh cũ.

A research study entitled Psychological Effects of Vipassana on Tihar Inmates was conducted at the All India Institute of Medical Sciences in New Delhi in 1997. This study determined that Vipassana meditation helps increase inmates control of their emotions resulting in a reduction of feelings of anger, tension, hostility, revenge and helplessness. Drug addiction, neurotic and psycho-pathological symptoms also diminished. (Chandiramani, Verma, Dhar & Agarwal, 1995; Kumar, 1995; Vora, 1995) In addition, inmates practicing Vipassana have shown an increased willingness to work, to participate in other treatment programs, to abide by prison rules and to cooperate with prison authorities. (Vora, 1995)

Một nghiên cứu khảo sát tựa đề Những tác động tâm lý của Vipassana lên các Tù Nhân tại Tihar được thực hiện tại Viện Khoa học Y Khoa Ấn Độ tại New Delhi vào năm 1997. Nghiên cứu khẳng định thiền Vipassana giúp các tù nhân tăng sự kiểm soát cảm xúc thông qua việc giảm cảm giác giận dữ, căng thẳng, oán ghét, thù hận và bất lực. Chứng nghiện ma túy, triệu chứng thần kinh và tâm lý bệnh lý cũng thuyên giảm. (Chandiramani, Verma, Dhar & Agarwal, 1995; Kumar, 1995; Vora, 1995). Thêm nữa, các tù nhân thực hành Vipassana cho thấy họ tăng tinh thần làm việc, và tham gia vào các chương trình trị liệu khác, tuân thủ nội quy Nhà tù và hợp tác với cơ quan chức năng của Nhà tù .

The sheer number of inmates who have benefited from Vipassana is nearly matched by the number of police cadets who have attended courses at the Police Training Academy in New Delhi. By 2001, 17 courses, some of them for as many as 1,265 police cadets at a time, had been conducted.

Số lượng lớn những tù nhân được lợi lạc từ Vipassana gần ngang với số lượng học viên trường cảnh sát đang tham dự khóa thiền tại Học viện huấn luyện Cảnh Sát ở New Delhi. Trước năm 2001, có 17 khóa thiền, một vài khóa khác tại thời điểm đó có đến 1.265 học viên trường cảnh sát tham dự, đã được tổ chức.

With India as the exemplary leader in bringing Dhamma to prisoners, meditators began the work of spreading Vipassana into prisons around the world. Sometimes the efforts brought only one course, but the seed was sown. At other times programs continue with great success.

Cùng với Ấn Độ cũng có những nhà lãnh đạo mẫu mực đã đem Dhamma đến các tù nhân, các hành giả bắt đầu công việc lan tỏa Vipassana trong các trại tù khắp thế giới. Đôi khi những nỗ lực chỉ đơn giản là chức một khóa thiền, theo cách đó hạt tốt đã được gieo. Các khóa học thời lượng khác đang có sự gia tăng đáng kể.

Police cadets meditating (credit to Newsline Photo by Cherian Thomas)

Học viên trường cảnh sát đang hành thiền ( Nguồn Newsline Photo bởi Cherian Thomas)

Sri Lanka/Sri Lanka

First Vipassana course was conducted in Bogambara, a maximum security prison and the second-largest correctional facility, situated in the old city of Kandy in the Central Province in 2004 after consistent efforts of Vipassana meditators in Sri Lanka.

Khóa thiền Vipassana đầu tiên được tổ chức tại Bogrambara, một nhà tù với mức an ninh tối đa và cơ sở vật chất cải tạo lớn thứ hai trong khu vực, tọa lạc tại một thành phố cổ kính của Kandy vào năm 2004 sau những nỗ lực bền bỉ của các hành giả ở Sri Lanka.

In 2003, prison authorities granted leave to seven correctional officers to attend a 10-day Vipassana course at Dhamma Kuta Vipassana center. In view of their positive reports, the prison authorities requested a 10-day Vipassana course to be conducted in the prison.

Năm 2003, quan chức nhà tù đã cho phép bảy sĩ quan cải tạo tham dự một khóa thiền Vipassana 10 ngày tại Trung tâm Vipassana Dhamma Kuta. Trước những báo cáo tích cực của họ, các quan chức nhà tù đã yêu cầu tổ chức một khóa thiền Vipassana 10 ngày trong nhà tù. 

Bogambara was an all-male institution, with female prisoners brought to the site only for specific programs. To allow female inmates to learn Vipassana, the Commissioner of Prisons gave permission for them to be housed in Bogambara during the course. This was the first time such an arrangement had been permitted in the history of Sri Lanka. Strict conditions of segregation and security were provided, under the supervision of a female warden who had done a Vipassana course.

Bogrambara là một cơ sở dành cho tù nhân nam, các tù nhân nữ được chuyển đến địa điểm chỉ dành cho các chương trình riêng biệt. Để cho phép các tù nhân nữ học Vipassana, Ngài Ủy Viên Nhà Tù cho phép họ được cư ngụ tại Bogrambara trong suốt khóa thiền. Đây là lần đầu tiên có một thỏa thuận như thế được cho phép trong lịch sử của Sri Lanka. Điều kiện nghiêm khắc của sự riêng biệt nam nữ và an ninh được đáp ứng, dưới sự giám sát của một nữ giám sát viên, người đã hoàn tất một khóa thiền Vipassana.

In 2004, 46 inmates (38 males and 8 females) completed the course successfully. The inmates worked with unflagging effort and great sincerity from the start of the course. There were special requests from participants to inform families from whom they had been separated since being sent to prison. On the 10th day, the participants greeted fellow inmates and welcomed their family members. Many requested a follow up of one-day courses. A set of ten-day discourse tapes was donated to the prison, for use after group sittings. 

Vào năm 2004, 46 tù nhân (38 nam và 8 nữ) đã hoàn thành khóa thiền thành công. Các tù nhân nỗ lực không ngừng nghỉ với sự chân thành từ lúc bắt đầu khóa thiền. Những yêu cầu đặc biệt từ những tù nhân tham gia đã được báo lại cho những người thân xa cách kể từ khi họ bị giam giữ. Vào ngày thứ 10, những tù nhân giao lưu với những những tù nhân khác và được chào đón như những người thân trong gia đình. Nhiều người mong muốn có một khóa thiền một ngày tiếp sau đó. Một bộ băng ghi lại pháp thoại 10 ngày được quyên tặng cho nhà tù, dùng cho việc ngồi thiền chung.

Meditators were given the opportunity to talk of the impact of their experience to the gathering, which included a former Chief Justice of Sri Lanka and a former Commissioner of Prisons. 

Các hành giả được trao cơ hội trò chuyện về tác động của những buổi thiền chung, trong đó có cả một Cựu Chánh Án Tòa Án của Sri Lanka và một Cựu Ủy Viên Nhà Tù.

Sri Lanka’s Bureau of the Commissioner General of Rehabilitation introduced 10-day Vipassana meditation courses for residents at its Kandakadu drug treatment and rehabilitation center, in North Central Province. Initial findings show a strongly positive impact on course participants. Daily group sittings at the center help the residents to continue meditating. Courses are held every two months, and a total of 13 courses have taken place till January 2018. Three other rehabilitation centers also held Vipassana courses in 2017.

Cục Tổng Ủy viên về Cải tạo của Sri Lanka đã giới thiệu khóa thiền 10 ngày cho các bệnh nhân nội trú tại trung tâm trị liệu và cải tạo Kandakadu, ở Vùng Trung Bắc. Những khám phá ban đầu cho thấy có những ảnh hưởng tích cực mạnh mẽ tới những bệnh nhân nội trú tham dự khóa thiền. Các nhóm thiền chung mỗi ngày tại trung tâm giúp bệnh nhân nội trú tiếp tục hành thiền. Các khóa thiền tổ chức mỗi hai tháng, và có tổng cộng 13 khóa thiền được thực hiện đến tháng Một 2019. Ba trung tâm cải tạo khác cũng đã tổ chức các khóa thiền Vipassana vào năm 2017.

Myanmar/ Myanmar

The first 10-day Vipassana course was successfully organised at Insein Central Prison, Yangon, Myanmar, in July 2008 and a center was established within the prison. There have been fifteen 10-day courses for men and four for women at Insein. In addition, the prison has been the site for 7-day Vipassana courses for young people, as well as Satipatthana courses. Most of the teenage inmates reported positive benefits after learning meditation. They expressed gratitude for the teaching and resolved to meditate daily. 

Khóa thiền Vipassana 10 ngày đầu tiên được tổ chức thành công tại Nhà tù Trung Tâm Insein, Yangon, Myanmar, trong tháng 7 năm 2008 có một trung tâm được thành lập trong tù. Ở Insein, có mười lăm khóa thiền 10 ngày cho nam và bốn khóa thiền cho nữ. Thêm nữa, các nhà tù đã là địa điểm cho khóa thiền Vipassana 7 ngày cho giới trẻ, cũng như khóa thiền Satipatthana. Hầu hết các tù nhân thanh thiếu niên đã kể lại những lợi ích tích cực sau khi thực hành thiền. Họ bày tỏ lòng biết ơn với lời dạy và sắp xếp thực hành thiền mỗi ngày.

There was also an Anapana course held at the same prison on July 27, 2008, for 169 young male inmates. Most of the teenaged inmates reported positive benefits after attending the course. They expressed gratitude for the teaching and resolved to meditate daily.

Khóa thiền Anapana cũng được tổ chức tại cùng nhà tù đó vào ngày 27 tháng 7, 2008, cho 169 nam tù nhân trẻ. Hầu hết các tù nhân thanh thiếu niên đều kể lại những lợi ích tích cực sau khi tham dự khóa thiền. Họ bày tỏ lòng biết ơn với lời dạy và hành thiền mỗi ngày.

This Center was followed by two more permanent Vipassana centers in prisons. Dhamma Rakkhita, (Guardian of Dhamma) was established in Thayawaddi Prison in Bago division in 2009 and Dhamma Vimutti (Liberation by Dhamma), was established in Obo Jail, Mandalay in 2010. Since 2008, regular Vipassana courses are conducted at these centers benefiting thousands of inmates.

Trung tâm này được theo sau bởi hai Trung Tâm Vipassana cố định trong tù. Dhamma Rakkhita, (Người bảo vệ Dhamma), được thành lập ở Nhà tù Thayawaddi ở Đặc khu Bago năm 2009 và Dhamma Vimutti (Sự Giải thoát bởi Dhamma), được thành lập ở Nhà tù Obo, Mandalay năm 2010. Từ 2008, các khóa thiền Vipassana thường xuyên được tổ chức tại các trung tâm trên mang đến nhiều lợi ích cho hàng ngàn tù nhân.

Prison staff members have also attended the courses inside the prison as well the courses outside the prisons. At Insein Central Jail, a study of Vipassana meditators found improvements in their mental and physical health, as well as behavioral changes for the better. In general, inmates responded well and showed keen interest in Vipassana regardless of their previous background.

Nhân viên trại giam cũng đã tham gia khóa thiền trong tù cũng như các khóa thiền bên ngoài nhà tù. Ở Nhà Tù trung tâm Insein, một nghiên cứu về các hành giả Vipassana đã cho thấy sự cải thiện về sức khỏe thể chất và tâm trí, cũng như sự thay đổi ngày càng tiến bộ về hành vi. Nhìn chung, các tù nhân phản ứng rất tốt và cảm thấy quan tâm về Vipassana dù họ có những gia cảnh trước kia khác nhau.

These developments are putting into practice the words of S.N. Goenka. As he has said, “Jails are actually meant to bring people out of misery, out of their mistakes. Vipassana meditation is a wonderful tool for inmates.”

Những tiến bộ này đang được thực hiện theo lời dạy của S.N.Goenka. Khi Ngài nói, “Nhà tù có ý nghĩa thực sự là đưa con người thoát khỏi khổ đau, thoát khỏi sai lầm. Thiền Vipassana là một công cụ tuyệt vời cho các tù nhân.”

Taiwan/ Đài Loan

In 1996, Goenkaji met with the Taiwanese Minister of Justice in Taiwan. As a result of this very brief meeting, a ten-day course was held at the Ming Te Branch Prison near Tainan on the southwestern coast of Taiwan. Ming Te Prison is an experimental drug rehabilitation institution situated in lush, wooded mountains, housing inmates convicted of narcotics use. It implements religious programs to help substance abusers in their recovery. In a move unprecedented in Taiwan penal history, Goenkaji was invited to give the closing address to the group of 24 prisoners attending the course. Since then, nothing further has developed in Taiwan.

Vào 1996, Goenkaji có cuộc gặp gỡ với Thủ tướng Tư Pháp Đài Loan tại Đài Loan. Kết quả của cuộc gặp ngắn này, khóa 10 ngày đầu tiên được tổ chức tại Chi Nhánh Nhà Tù Ming Te gần Tainan thuộc vùng duyên hải phía Tây Nam Đài Loan. Nhà tù Ming Te là một trại cai nghiện ma túy tọa lạc trong vùng núi xanh tốt, là nơi cư ngụ cũng những tù nhân bị tuyên án dùng các chất cấm. Ở đây họ thực hiện các chương trình tôn giáo để giúp những kẻ nghiện ngập phục hồi. Một bước tiến mới chưa từng có trong lịch sử Đài Loan, Goenkaji được mời phát biểu thân ái đến một nhóm 24 tù nhân tham dự khóa thiền. Kể từ đó, chưa có sự tiến triển gì khác ở Đài Loan.

Thailand/ Thái Lan

After an Inspector General from the Thai Department of Corrections read about the film, ‘Doing Time, Doing Vipassana’, she arranged for local assistant teachers to make a presentation to her staff. But after learning that the Vipassana volunteers would need to reside at the prison with the inmates, her staff tabled the matter.

Sau khi một vị Tổng Thanh Tra từ Bộ Cải Tạo Thái Lan được biết về bộ phim. “Thiền Vipassana trong tù”, cô đã sắp xếp cho vài thiền sư phụ tá để trình bày với các nhân viên của mình. Nhưng sau khi biết rằng các tình nguyện viên Vipassana sẽ cần ở trong tù với các tù nhân, nhân viên của cô đã hoãn lại hoạt động trên.

Then, five years later, an old student involved with one of Thailand’s television station arranged to have the film dubbed in Thai. The Director General of the Department of Corrections watched the video, and showed a keen interest in arranging a Vipassana a try in Thai prison. 

Năm năm sau đó, một thiền sinh cũ đi đến một trong những đài truyền hình Thái Lan với mục đích sản xuất một bộ phim lồng tiếng Thái. Bộ trưởng Bộ Cải tạo đã xem video, và thấy hứng thú sắp xếp một thử nghiệm thiền trong Nhà Tù Thái Lan.

In May 2002, a Vipassana course was arranged at the Kolong Pai Prison in Sikhiu District, northeast of Bangkok. Forty-nine male drug offenders and two prison staff attended this course. A second course for 50 women at a separate women’s facility was held two months later. The Inspector General, who had originally showed an interest in arranging Vipassana courses, attended this course as a student, choosing to occupy a prison cell with basic toilet facilities just like the other students. At the end of this course, the Director General announced that both of these course sites would be turned into permanent Vipassana centers. However, since then the Department of Corrections underwent some changes and it was uncertain whether reform policies would remain in place.

Vào tháng Năm 2002, một khóa thiền Vipassana được tổ chức tại Nhà tù Kolong Pai ở Quận Sikkiu, phía Đông Bắc Bangkok. Bốn mươi chín nam phạm nhân ma túy và hai nhân viên trại giam tham gia khóa thiền. Một khóa thiền thứ hai cho 50 tù nhân nữ tại khu vực dành cho nữ được tổ chức hai tháng sau. Ngài Tổng Thanh Tra, người ban đầu chỉ thấy hứng thú tổ chức khóa thiền Vipassana, đã tham dự khóa này như một thiền sinh, và chọn ở lại trong phòng giam với cơ sở vật chất căn bản như bao thiền sinh khác. Khi kết thúc khóa thiền này, Ngài Bộ trưởng tuyên bố rằng cả hai địa điểm khóa thiền trên sẽ trở thành trung tâm cố định của Vipassana. Tuy nhiên, kể từ khi Bộ Cải Tạo đưa ra một số chuyển đổi do những bất ổn, vậy những chính sách cải cách khi đó còn được duy trì hay không.

Mongolia/ Mông cổ

Twenty-eight female inmates serving sentences in the female only correctional facility in Mongolia successfully completed their first Vipassana course in August 2005.

Hai mươi tám tù nhân nữ chịu bản án trong cơ sở cải tạo riêng biệt cho nữ người Mông Cổ đã kết thúc thành công khóa thiền Vipassana đầu tiên vào Tháng Tám 2005.

The course was conducted as a result of a direct order by the Minister of Justice, who was also the Speaker of the Mongolian Parliament. The encouraging results were broadcasted nationwide on the last day of the course.

Khóa thiền được tổ chức là kết quả từ yêu cầu trực tiếp bởi Bộ Tư Pháp, cũng là Phát Ngôn viên của Quốc hội Mông cổ. Những kết quả đáng khích lệ được phát thanh khắp cả nước vào ngày cuối cùng của khóa thiền.

The second prison course for women in Mongolia was held in May 2007. There were 25 students who completed the course; seven of them were old students who had taken their first course at the prison two years earlier. At the end of the course, many students expressed responsibility and regret for crimes committed, mistakes made, and anger and resentment that they had suffered for many years. They also expressed gratitude and hope for their future. The prison superintendent promised that they would be given an opportunity to meditate at least once a day. 

Khóa thiền thứ hai cho nữ tại Mông cổ được tổ chức vào tháng Năm 2007. Có 25 thiền sinh hoàn thành khóa, bảy người trong số họ là thiền sinh cũ những người đã hoàn thành khóa đầu tiên vào hai năm về trước. Cuối khóa thiền, nhiều thiền sinh bày tỏ trách nhiệm và hối hận vì những tội ác nó đã gây ra, các sai lầm phạm phải, những giận dữ và oán ghét họ đã chịu đựng trong nhiều năm. Họ cũng bày tỏ lòng biết ơn và hy vọng vào tương lai sắp tới. Giám ngục trại giam cũng hứa rằng các tù nhân này sẽ có cơ hội hành thiền ít nhất một lần mỗi ngày.

The Department of Justice sent representatives from four Mongolian men’s prisons to 10-day Vipassana courses, and requested for courses to be held in each of these facilities as soon as possible.

Sở Tư Pháp cử người đại diện của bốn nam tù nhân Mông Cổ để tham dự khóa thiền 10 ngày, và yêu cầu những khóa thiền kế tiếp sớm được tổ chức ở mỗi cơ sở trên.

The conducting Vipassana teacher returned to the prison for a follow-up group sitting two weeks later. It was attended by 23 students. They had been meditating regularly, were enthusiastic about the benefits, and requested for another course as soon as possible.

Các thiền sư giảng dạy Vipassana trở về nhà tù để quan sát các nhóm ngồi thiền chung hai tuần sau đó. Có 23 thiền sinh tham gia. Họ đã hành thiền đều đặn, và vô cùng hào hứng vì đã có những kết quả tốt, và yêu cầu sớm có một khóa thiền khác.

Israel/ Israel

The first Vipassana course was conducted in December 2006 at Israel’s Hermon Prison, a minimum-security rehabilitation facility located in a quiet area of the Lower Galilee, after almost a decade of the consistent efforts. Preparation of the course was started from September 2006 with series of orientation sessions and selection of a strong team to conduct the course. 13 inmates, including recovering addicts and repeated offenders from different religious backgrounds, participated in the course. The course was concluded successfully in spite of some initial hardships.

Khóa thiền Vipassana đầu tiên được tổ chức vào Tháng mười hai 2006 tại Nhà tù Hermon của Israel, một cơ sở cải tạo với an ninh tối thiểu tọa lạc tại khu vực yên tĩnh của Vùng Hạ Galilee, sau gần như một thập kỷ với nỗ lực bền bỉ. Việc chuẩn bị khóa thiền bắt đầu từ tháng Chín 2006 với một loại khóa thiền định hướng và một đội nhóm mạnh được chọn lọc để thực hiện khóa thiền. 13 tù nhân, gồm những người nghiện ngập đang hồi phục và những tù nhân thường xuyên từ nhiều nền tôn giáo khác nhau, cùng tham dự khóa thiền này. Khóa thiền được tổ chức thành công dù ban đầu gặp phải khó khăn.

After the end of the course on Day 11, the prison staff organized a closing ceremony. Freinds of the students and senior officials from the Prison Service attended the closing ceremony. Several students shared their experiences. One told about the times he had thought of leaving the course: “Suddenly I realized this is what I had been doing all my life – running away without facing the situation. I understood that the problem was within me, and that now I had a tool to help me change this habit pattern.” 

Sau ngày cuối khóa ngày thứ 11, nhân viên nhà tù tổ chức một buổi kỷ niệm thân mật. Bạn bè của các thiền sinh và quan chức cấp cao từ Ban phục vụ Nhà tù cũng tham dự buổi kỷ niệm thân mật này. Một vài thiền sinh chia sẻ trải nghiệm của họ. Một người nói có những thời điểm anh muốn bỏ khóa thiền:” Thình lình tôi nhận rằng đó là điều tôi đã làm suốt với cuộc đời của mình- Chạy trốn để không đối mặt với tình huống. Tôi đã hiểu vấn đề bên trong chính mình, và bây giờ tôi đã có công cụ giúp tôi thay đổi khuôn mẫu thói quen này.’’

After successful completion of the first course, the second course was arranged in Hermon Prison during April-May 2007. Some students from December 2006 course also attended the course for the second time. Organisers arranged the course based on the experience of the first course to ensure that students had a strongly supportive environment. The result was that the participants worked seriously and deeply to achieve real benefits. Non-meditators attending the closing ceremony were struck by the change in the students.

Sau khi kết thúc thành công khóa thiền đầu tiên, khóa thứ hai được tổ chức tại Nhà tù Hermon trong suốt tháng Tư – tháng Năm 2007. Một số thiền sinh từ khóa thiền Tháng 12 năm 2006 cũng đến tham dự lần thứ hai. Nhà tổ chức sắp xếp khóa thiền dựa vào kinh nghiệm của khóa thiền trước để chắc rằng các thiền sinh có môi trường hỗ trợ tốt nhất. Kết quả là các thiền sinh tham gia làm việc nghiêm túc và chăm chú và đạt nhiều kết quả thực sự. Những người không hành thiền tham dự lễ kỷ niệm thân mật cũng bị tác động bởi những thay đổi từ các thiền sinh.

United Kingdom/ Vương Quốc Anh

The first Vipassana course in a prison in Europe was conducted in 1998, at Lancaster Castle Prison in U.K.  This is possibly one of the places with the longest record of continuous use for incarceration in the world. The original buildings date back to about 1093. Dungeons still exist on the site.

Khóa thiền Vipassana đầu tiên trong một nhà tù tại Châu Âu được tổ chức năm 1998, tại Nhà tù Lâu Đài Lancaster ở U.K. Đây có lẽ là một trong những nơi có có bề dày lâu đời nhất trên thế giới nơi vẫn tiếp tục dùng để giam giữ tội phạm. Tòa lâu đài ban đầu có từ khoảng năm 1093. Những ngục tối trong tòa lâu đài vẫn còn tồn tại đến nay.

The 10-day Vipassana course took place after two officers attended Vipassana course and, encouraged by their own experience and the knowledge of prison courses being held in other countries, decided to explore the possibility of running a course in Lancaster. When assistant teachers first visited the prison, they had their doubts about conducting a course there. Nevertheless, the governor was inspired by the video of the Tihar jail courses. He insisted that he wanted to hold a course. Eventually a way was found to set up a small area as a self-contained compound for a course.

Khóa thiền Vipassana 10 ngày được tổ chức sau khi hai quan chức tham dự khóa thiền Vipassana và, được khích lệ bởi những trải nghiệm của chính họ và hiểu biết về các khóa thiền trong tù được tổ chức tại các quốc gia khác, họ đã quyết định khám phá khả năng để làm một khóa thiền như thế ở Lancaster. Khi những thiền sư phụ tá đầu tiên viếng thăm nhà tù, họ có nghi ngờ về việc dạy một khóa thiền ở đây. Dù thế, chính quyền cảm thấy được truyền cảm hứng qua video về các khóa thiền trong tù tại Nhà tù Tihar. Ông ấy vẫn kiên quyết muốn tổ chức khóa thiền. Cuối cùng một cách được thực hiện là lập ra một khu vực nhỏ như một nơi khu vực khép kín dành cho khóa thiền.

Eight inmates attended the course. Despite inconveniences, they worked seriously and gained greatly from the experience. The Prison Journal Service, issue 127 reported that Lancasters Education Department had noted that there was a marked change for the better in personal discipline, willingness to learn and quality of output from the course participants.

Tám tù nhân đã tham dự khóa thiền. Mặc cho những điều kiện bất tiện, họ vẫn làm việc nghiêm túc và đạt lợi ích nhiều từ trải nghiệm. Ban phục vụ tờ Journal Prison đã ấn bản 127 báo cáo nói rằng Bộ Giáo dục Lancasters đã ghi nhận có một thay đổi đáng kể trong sự tăng tiến kỷ luật cá nhân, tinh thần sẵn sàng học tập và chất lượng đầu ra của các thiền sinh tham gia khóa thiền.

Ireland/ Ireland

In August 2015, three years of patient efforts came to fruition when a Vipassana course took place at a low-security prison in Loughan House in Blacklion, County Cavan. 

Tháng Tám 2015, sau ba năm nỗ lực kiên nhẫn đã đến ngày có thành quả khi một khóa thiền Vipassana được tổ chức tại một nhà tù có an ninh thấp tại Loughan House ở Blacklion, Quận Cavan.

Before the course was organized, two members of the Loughan House staff attended a 10-day Vipassana course. One of them served as liaison between the prison administration and the course management team. The course was concludes successfully. 

Trước khi khóa thiền được tổ chức, hai thành viên là nhân viên của Loughan House đã tham dự một khóa thiền 10 ngày. Một trong số họ đã liên lạc giữa ban quản lý nhà tù và ban quản lý khóa thiền. Khóa thiền đã kết thúc thành công.

On the 10th Day, there was a small reception to congratulate the participants and hear about their experiences. Prison governor, other staff members, inmates and family members of the participants attended the reception. 

Vào ngày thứ 10, có một buổi tiệc chiêu đãi nho nhỏ để chúc mừng các thiền sinh và lắng nghe kinh nghiệm của họ. Quan chức nhà tù, các nhân viên nhà tù khác, cùng tù nhân và gia quyến của những người tham gia cùng tham dự buổi tiệc đó.

The success of the first course paved the way for future courses in Ireland. Meanwhile, group sittings continued at Loughan House, and several of the participating inmates were allowed leaves to join a three-day course in Dublin.

Thành công của khóa thiền đầu tiên dọn đường cho các khóa thiền tương lai tại Ireland. Khi đó, các nhóm thiền chung tiếp tục thực hành tại Loughan House, và vài tù nhân đang tham gia khóa thiền được phép rời trại để tham dự khóa thiền ba ngày tại Dublin.

Spain/ Tây Ban Nha

The first 10-day course in Spain was conducted in 2003, at Can Brians Jail, high-security facility near Martorell, Barcelona. The story behind the approval for this course and its preparation is inspiring.

Khóa thiền 10 ngày đầu tiên tại Tây Ban Nha được tổ chức năm 2003, tại Nhà tù Can Brians, cơ sở an ninh tối cao gần Martorell, Barcelona. Câu chuyện đằng sau sự chấp thuận khóa thiền và việc chuẩn bị thật truyền cảm hứng.

About two years before start of a first course, a retired man attended his first 10-day Vipassana course at Dhamma Neru Vipassana Center. After getting benefitted by the technique, he was determined to introduce Vipassana into the prisons. He chose Can Brians prisons, because of its willingness to experiment with new ways of transforming prisoners, and was at the cutting edge of the Spanish prison service.

Khoảng hai năm trước khi bắt đầu khóa thiền đầu tiên, một người đàn ông về hưu tham dự khóa thiền 10 ngày đầu tiên tại Trung tâm Vipassana Dhamma Neru. Sau khi nhận được lợi lạc từ phương pháp này, ông quyết chí giới thiệu Vipassana đến nhà tù. Ông chọn Nhà tù Can Brian, vì nhà tù này sẵn lòng thử nghiệm những cách mới để chuyển hóa phạm nhân, đó cũng là bước ngoặt trong việc phục vụ Nhà tù tại Tây Ban Nha.

The Director of the prison invited some trustees to make a presentation to prison staff and visiting professionals which was attended by 30 people, including a senior judge whose wife had previously attended a 10-day Vipassana course. The response was positive and four staff members and one male inmate attended a course at Dhamma Neru. After their course, a detailed report in Spanish, showing all the guidelines and requirements, was prepared and submitted to the government.

Giám đốc nhà tù đã mời những người tin cậy để trình bày với những nhân viên nhà tù và thăm hỏi các chuyên gia, buổi gặp này có 30 người tham dự, gồm cả thẩm phán cao cấp người có vợ đã tham gia khóa thiền Vipassana 10 ngày trước đây. Những phản hồi tích cực và bốn nhân viên cùng một nam tù nhân tham dự khóa thiền tại Dhamma Neru. Sau khóa thiền, một bản báo cáo chi tiết bằng tiếng Tây Ban Nha, chỉ ra những hướng dẫn và điều kiện, được chuẩn bị và đệ trình lên Chính phủ.

During the eight weeks prior to the course, there were many preparations. Five orientation classes with interested inmates were held over a period of about a month. The separate facility within the prison that would be used for the course was checked and approved. Special permission from the government was required for the teacher and servers to stay at the prison for the duration of the course. As well, a system was needed for preparing course food in the prisons main kitchen.

Trong suốt tám tuần trước khóa thiền, có nhiều sự chuẩn bị. Bốn lớp định hướng cho những tù nhân quan tâm được tổ chức hơn một tháng. Các cơ sở vật chất riêng biệt trong nhà tù được dùng cho khóa thiền được kiểm tra và chấp thuận. Một lệnh phê chuẩn đặc biệt từ chính phủ được yêu cầu cho các thiền sư và người phục vụ được phép ở lại trong tù trong suốt khóa thiền.Cũng như, một hệ thống cần thiết để chuẩn bị thức ăn cho khóa thiền trong khu bếp chính của nhà tù.

With well-thought-out plans in place and some last minute difficulties, the course started on time and was a great success. Eighteen students completed the course. They shared their experience with other prisoners, family and guests at a Day 11 reception. One student requested the teacher of the course to write an article about Vipassana for a prison magazine that is distributed to 7,000 inmates throughout Catalunya. The director was clearly struck by the change in the inmates. He arranged for daily sittings for them and requested for another course of 30 students in autumn 2003.

Với kế hoạch chuẩn bị chu đáo tại nhà tù và một vài khó khăn phút cuối, nhưng khóa thiền bắt đầu đúng hạn định và đạt thành công lớn. Mười tám thiền sinh đã hoàn thành khóa thiền. Họ chia sẻ trải nghiệm với các tù nhân khác, gia đình và quan khách vào buổi tiếp đãi Ngày thứ 11. Một thiền sinh yêu cầu thiền sư của khóa thiền viết một bài viết về Vipassana cho tạp chí nhà tù một tờ ấn phẩm được phân phát cho 7.000 tù nhân khắp xứ Catalynya. Vị Giám đốc đã kinh ngạc bởi thay đổi trong các tù nhân. Ông đã sắp xếp những buổi ngồi thiền mỗi ngày cho tù nhân và yêu cầu những khóa thiền khác cho 30 thiền sinh vào tháng Tám 2003.

New Zealand/ New Zealand

Since 1999, Vipassana courses have been held in New Zealand at ‘Te Ihi Tu’ a rehabilitation center in New Plymouth, a city on the North Island of New Zealand, run by Maoris (the indigenous people of New Zealand), for Maori pre-release prisoners and parolees. ‘Te Ihi Tu’ is a private trust supported by the New Zealand Corrections Department. The trust focuses on traditional Maori culture and values to help the men cope better with life after release. Each year, ‘Te Ihi Tu’ Trust runs three months pre-release rehabilitation program, which starts with a ten-day Vipassana Meditation course.

Kể từ năm 1999, khóa thiền Vipassana được tổ chức tại New Zealand ở “Te Ihi Tu” một trại cải tạo ở New Plymouth, một thành phố nằm ở Bắc Đảo New Zealand, vận hành bởi người Maoris (Người bản địa New Zealand), dành cho người Maori chuẩn bị ra tù và được khoan hồng. ‘Te Ihi Tu’ là một nơi riêng biệt đáng tin cậy được ủng hộ bởi Bộ Cải tạo New Zealand. Niềm tin được chú trọng trong truyền thống văn hóa Maori và giá trị này giúp đỡ con người trở nên sống tốt hơn sau khi ra tù. Mỗi năm, ‘Te Ihi Tu’ thực hiện chương trình tái hòa nhập trước khi ra tù kéo dài 03 tháng, bắt đầu với khóa thiền Vipassana mười ngày.

Vipassana Meditation was incorporated into the ‘Te Ihi Tu’ program in September 1999 after two staff members attended a ten-day Vipassana course at Dhamma Medini Vipassana Meditation Center, near Auckland. The other staff members became quickly convinced that Vipassana Meditation would be beneficial and decided to give it a trial. Since 1999, multiple Vipassana courses were held at ‘Te Ihi Tu’, making it an integral part of their program.

Khóa thiền Vipassana được đưa vào chương trình “Te Ihi Tu’ vào tháng chín năm 1999 sau khi hai nhân viên tham dự khóa Vipassana 10 ngày tại Trung tâm thiền Vipassana Dhamma Medini, gần Auckland. Các nhân viên nhà tù khác nhanh chóng bị thuyết phục rằng Vipassana sẽ có lợi ích và quyết định làm một thử nghiệm. Từ năm 1999, nhiều khóa thiền Vipassana được tổ chức trong chương trình “Te Ihi Tu’, làm khóa thiền trở thành một phần của chương trình.

‘Te Ihi Tu’ staff noticed a deep change in attitude of prisoners after learning Vipassana, and the participants expressed the willingness to change for better in the farewell meeting at the end of the course. The entire emphasis at ‘Te Ihi Tu’ was on Maoris helping Maoris in a Maori setting. Despite this, the trust welcomed Vipassana as a key part of the program it offered – a remarkable recognition of the universality of the Dhamma.

Nhân viên ‘Te Ihu Tu’ đã nhận thấy sự thay đổi sâu sắc trong thái độ của các tù nhân sau khi học Vipassana, và người tham gia bày tỏ lòng sẵn sàng thay đổi để sống tốt hơn trong buổi gặp chia tay cuối khóa. ‘Te Ihi Tu’ nhấn mạnh hoàn toàn trên cơ sở người Maoris giúp người Maoris trong truyền thống Maoris. Trái lại, niềm tin đã chào đón Vipassana như là phần chủ chốt của chương trình- là sự ghi nhận giá trị với sự phổ quát của Dhamma.

United States of America/ Hoa Kỳ

The King County North Rehabilitation Facility (NRF), Seattle, Washington, was the first correctional facility in North America to hold Vipassana course in 1997. 11 inmates successfully completed the course.

Cơ sở cải tạo phía Bắc Quận King (NRF), Seattle, Washington, là một trung tâm cải tạo đầu tiên ở Bắc Mỹ tổ chức khóa thiền Vipassana năm 1997, 11 tù nhân đã tham dự khóa thiền này.

San Francisco Jail #7, San Bruno, California was the second correctional facility and the first medium-security jail in the U.S. to undertake a Vipassana course. The first ten-day course was held in  2001 attended by 14 inmates. Old students provided critical support by providing daily hot lunches to augment the jail food that was quite limited. They also provided much support in setting up the course site, bringing in things needed during the course and arranging for concluding day reception.

Nhà tù San Francisco số 7, San Bruno, California là cơ sở cải tạo thứ hai và là nhà tù đầu tiên có mức độ an ninh vừa phải tại Hoa kỳ đã tổ chức một khóa thiền Vipassana. Khóa thiền mười ngày đầu tiên được tổ chức năm 2001 có 14 tù nhân tham dự. Thiền sinh cũ được cung cấp sự hỗ trợ thiết yếu bằng các bữa ăn trưa nóng hổi để bổ sung cho thức ăn trong tù vẫn còn hạn chế. Họ cũng được cung cấp sự hỗ trợ để bố trí địa điểm khóa thiền, mang vào những thứ cần thiết trong suốt khóa thiền và sắp xếp cho ngày tổng kết khóa.

The first ten-day Vipassana course was held at W.E. Donaldson Correctional Facility, Bessemer, Alabama, a U.S. maximum-security facility and the location for the award-winning documentary film, “The Dhamma Brothers”, in January 2002 for 20 inmates. Alabama’s most violent and mentally unstable prisoners are incarcerated in this facility.  After the successful first course, Hundreds of inmates at Donaldson have attended the Vipassana meditation program, currently the only one of its kind in North America.

Khóa thiền 10 ngày đầu tiên được tổ chức tại Cơ sở cải tạo W.E Donaldson, Alabama, một cơ sở có mức an ninh tối đa của US và địa điểm chọn để trao giải cho phim tài liệu, “Những người anh em Dhamma”, vào tháng Một năm 2002 với 20 tù nhân. Những tù nhân tại Alabama này hầu hết bạo loạn và có bất ổn tâm lý họ bị giam cầm trong cơ sở này. Sau thành công khóa thiền đầu tiên, hàng trăm tù nhân tại Donaldson tham dự chương trình thiền Vipassana, hiện tại chỉ có một trung tâm như thế ở Bắc Mỹ.

The state wanted to expand the program to its women’s prison. The prison has 24 death row cells, and about a third of the approximately 1,500 prisoners are serving life sentences with no chance of parole. Ongoing research being conducted by the University of Alabama and Stanford University has found that inmates who go through the course have a 20 percent reduction in disciplinary action.

Tiểu Bang muốn mở rộng chương trình cho các nữ tù nhân. Nhà tù có 24 dãy phòng tử hình, và một phần ba xấp xỉ gần 1.500 tù nhân chịu bản án chung thân không có cơ hội tha bổng. Một nghiên cứu đang được tiến hành bởi Đại học Alabama and Đại học Stanford đã phát hiện rằng tù nhân trải qua khóa thiền giảm đến 20% những vụ xử lý kỷ luật.

The Hamilton Aged and Infirmed Correctional Facility, a Level 4 medium-security medical prison in northwest Alabama conducted its first 10-day course on June 2, 2007. The course was held inside two chapel buildings that were separated from the main facility and included a small yard. The warden and psychologist were satisfied overall with the results. 

Cơ sở cải tạo theo độ tuổi và không độ tuổi Hamilton, Nhà tù y tế với mức độ an ninh cấp độ 4 nằm ở phía Tây Bắc Alabama thực hiện khóa thiền 10 ngày đầu tiên vào ngày 2 tháng 6 năm 2007. Khóa thiền được tổ chức trong hai tòa nhà nguyện được ngăn ra khỏi khu vực chính và gồm một cái sân nhỏ. Nhà quản giáo và nhà tâm lý nhìn chung khá hài lòng với các kết quả.

Supervising the courses in North America is the North American Vipassana Prison Trust. The Trust holds annual retreats to plan its activities and provide training. Since 1997, the North American Vipassana Prison Project has brought over numerous 10-day residential courses to more than hundreds of participants at five correctional facilities in North America. 

Giám sát khóa thiền tại Bắc Mỹ là Ban Tín nhiệm Vipassana cho Nhà tù Bắc Mỹ. Ủy Ban này nắm giữ các trị liệu hàng năm để lên lịch hoạt động và cung cấp đào tạo. Năm 1997, Dự án Vipassana Nhà tù Bắc Mỹ đã mang đến vô số khóa thiền nội trú 10 ngày cho hơn hàng trăm người tham gia tại năm cơ sở cải tạo ở Bắc Mỹ.

Canada/ Canada

In fall 2011, Westmorland Institution in eastern Canada hosted the country’s first Vipassana meditation course to be held in a correctional facility.

Mùa thu 2011, Viện Westmorland ở Phía Đông Canada chủ trì khóa thiền Vipassana đầu tiên của quốc gia tại một trung tâm cải tạo.

The groundwork for bringing Vipassana to Westmorland was laid when two members of the staff attended a 10-day course and participated in a workshop of the Vipassana Prison Trust. When they returned to their jobs, they enthusiastically told other staff members about their experience and the possibility of giving inmates the same opportunity.

Cơ sở của việc mang Vipassana đến Westmorland là khi hai nhân viên nhà tù tham gia khóa thiền 10 ngày và tham dự workshop của Ban Tín nhiệm Vipassana cho Nhà Tù. Khi họ trở về công việc, họ nhiệt tình nói với các đồng sự về kinh nghiệm của họ và về khả năng cho các tù nhân cơ hội tương tự.

For the course site, the administration made available a self-contained facility within the institution. It contained a meeting room, a kitchen and dining area, private rooms for all participants, toilets and showers, and a laundry room. By prison standards, it was luxurious.

Về địa điểm khóa học, ban điều hành làm một cơ sở khép kín trong chính trung tâm. Nó gồm phòng họp, nhà bếp và khu vực ăn tối, các phòng riêng cho các thiền sinh, toilet và vòi tắm, và một khu giặt giũ. Với các tiêu chuẩn nhà tù, thì nó thật là sang trọng.

Total 16 men participated in the course. Served by a small group of dedicated old students, the course participants worked hard and completed the course successfully. As always, the closing ceremony was moving. Each inmate spoke of his struggles during the course and his happiness at the end of the course.

Tất cả có 16 nam thiền sinh dự khóa thiền. Được phục vụ bởi một nhóm nhỏ các thiền sinh cũ tận tâm, các thiền sinh tham dự làm việc cần mẫn và hoàn thành khóa thiền.Luôn là thế, các buổi tổng kết khóa cảm động. Mỗi tù nhân nói lên sự đấu tranh trong suốt khóa thiền và niềm hạnh phúc vào cuối khóa.

After the course, evening group sittings began at Westmorland for inmates. There were tentative plans for another 10-day course and several of the participants in this course  expressed interest in joining it.

Sau khóa thiền, nhóm ngồi thiền buổi tối cho tù nhân bắt đầu tại Westmorland. Có những kế hoạch không chắc chắn cho khóa thiền 10 ngày tới và một vài thiền sinh khóa này bày tỏ ý muốn tham dự.

In June 2015, a judge of Canada’s Federal Court, while ruling on an appeal by a prison inmate who had been denied parole, recommended watching the film ‘Doing Time, Doing Vipassana’  for the prisoners. He further mentioned in obiter the significance of practice of Vipassana meditation in reducing the risk of reoffending and suggested to use the technique of Vipassana meditation in detention centers to lower the risk of crimes in a society.

Vào tháng Sáu 2015, một chánh án của Tòa án Liên Bang Canada, trong lúc ra phán quyết cho một tù nhân người bị từ chối tha bổng, đã khuyên xem cuốn phim “Ngồi tù, Ngồi thiền Vipassana’ cho những tù nhân. Ông nói thêm về tác dụng đáng kể của việc thực hành thiền Vipassana trong việc giảm rủi ro tái phạm pháp và đề nghị dùng kỹ thuật của Thiền Vipassana trong các trại giam để giảm tỉ lệ phạm tội trong xã hội.

In July 2015, a juvenile detention center in the Canadian province of Manitoba hosted a one-day Anapana meditation workshop—the first of its kind offered under the auspices of the Vipassana Prison Trust for 11 young men aged 15 to 18. Inspite of challenges, all the participants meditated seriously.  Afterwards, the young men talked about how Anapana helped them stay calm in what would normally be agitating circumstances—for example, a court appearance, a disagreement with staff or other residents, or a difficult phone conversation. To read the full account of this course, please click here.

Vào tháng Bảy 2015, một trung tâm giam giữ trẻ vị thành niên ở tỉnh Manitoba của Canada đã chủ trì buổi workshop thiền Anapana một ngày- workshop đầu tiên được bảo trợ bởi Ban Tín nhiệm Vipassana cho Nhà Tù dành cho 11 thanh thiếu niên từ 15 đến 18. Dù có nhiều thử thách, tất cả người tham dự đã hành thiền nghiêm túc. Sau đó, người thiếu niên trẻ nói về làm thế nào Anapana giúp họ giữ bình tĩnh trong những tình huống kích động bình thường- ví dụ, sự hiện diện trước tòa, không đồng tình với nhân viên trại hoặc người bạn cùng trại, hoặc khó khăn trong giao tiếp điện thoại. Để đọc toàn đề mục của khóa thiền này, vui lòng nhấn vào đây.

Mexico/ Mexico

The first course was arranged in March 2003 at Penal de Santiaguito, Mexican States facility in Almoloya de Juarez. This facility, housing about 1,500 inmates, has been a model for Latin American prisons. The course actually took place in a small separate facility just in front of the main one. It was a totally independent space where each inmate had his own room and there was a large open walking area.

Khóa thiền đầu tiên được tổ chức vào Tháng Ba 2003 tại Penal de Santiaguito, cơ sở tại Bang Mexican ở Almoloya de Juarez. Cơ sở này, là nơi cư trú của khoảng 1.500 tù nhân, một mô hình nhà tù Mỹ Latin. Khóa thiền diễn ra trong cơ sở nhỏ và riêng biệt chỉ ở phía trước khu vực chính. Không gian hoàn toàn độc lập nên các tù nhân có hẳn phòng riêng và có không gian mở rộng lớn để tản bộ.

Events leading to a course in Mexico began when an employee from the correctional facility attended a Vipassana course and informed her boss, General Director in charge of 20 facilities in the State of Mexico, about the course. After watching the film ‘Doing Time, Doing Vipassana’, General Director was inspired to organize a course in the prison. This was followed by a conference with a Vipassana teacher. Eventually, 12 people from different penal system departments joined a Vipassana course, as a critical prerequisite for holding a prison course. After two more meetings with the authorities, a date and site was finalized for the course.

Những sự kiện dẫn đến khóa thiền tại Mexico bắt đầu khi một nhân viên từ cơ sở cải tạo tham dự một khóa thiền Vipassana và chỉ cho sếp của cô về khóa thiền, Ngài Tổng Giám đốc phụ trách 20 cơ sở ở Bang ở Mexico. Sau khi xem bộ phim “Ngồi tù, Ngồi thiền Vipassana’, Ngài Tổng Giám Đốc có được cảm hứng tổ chức một khóa thiền trong tù. Một cuộc họp mặt với thiền sư Vipassana diễn ra sau đó.Sau cùng, 12 người từ các hệ thống phòng xử phạt khác nhau tham gia khóa thiền Vipassana, như một điều kiện tiên quyết để tổ chức khóa thiền trong tù. Sau hơn hai lần gặp mặt các đại diện có thẩm quyền, một địa điểm và ngày tháng cho khóa thiền được ấn định. 

After interviewing more than 30 inmates (all within weeks of release), 18 inmates were chosen for the course. The group, which included murderers, kidnappers, robbers, and drug and arms dealers, worked seriously. There were few disturbances but none of the students left the course. After the course, all participants expressed their gratitude and their determination to change their lives.

Sau khi phỏng vấn hơn 30 tù nhân ( trong các tuần được phóng thích), 18 tù nhân được chọn để tham dự khóa thiền. Nhóm đó gồm những kẻ giết người, bắt cóc trẻ em, cướp giật, và buôn bán ma túy, họ đều làm việc cần mẫn. Có vài sự quấy rối nhưng không thiền sinh nào rời khóa thiền. Sau khóa thiền, tất cả tù nhân bày tỏ lòng biết ơn và kiên quyết thay đổi cuộc đời họ.

TV and press attended the reception on Day 11 and the next day reported the successful completion of the course. The authorities were pleased about the outcome of the course and wanted to establish a more continuous and permanent Vipassana program in the Almoloya facility.

Tivi và báo đài tham dự ngày tổng kết cuối khóa vào Ngày 11 và ngày kế tiếp họ đưa tin rằng khóa thiền đã kết thúc tốt đẹp. Các đại diện có thẩm quyền họ hài lòng về kết quả của khóa thiền và muốn làm thêm nhiều chương trình Vipassana tiếp theo và cố định tại cơ sở Almolya.

Colombia/Colomia

The first Vipassana course was conducted in March 2011 at Reclusión de Mujeres, a women‘s prison in Pereira, one of Colombia‘s most violent cities. The institution houses 252 adults as well as their children below the age of 3. One social worker suggested to conduct a Vipassana course in this prison and the prison director agreed.

Khóa thiền Vipassana đầu tiên được thực hiện vào Tháng Ba 2011 tại Reclusion de Mujeres, một phụ nữ trong nhà tù ở Pereira, một trong những thành phố bạo động nhất ở Colombia. Trung tâm này là nơi cư ngụ của 252 người lớn cũng như trẻ em dưới 3 tuổi. Một người lao động đề nghị tổ chức một khóa thiền Vipassana ở nhà tù này và giám đốc nhà tù đồng ý.

After a staff member attended a 10-day Vipassana course, the planning work began. The course site was a self-contained area within the facility, containing a meditation hall with adjacent accommodation and washrooms.  Necessary arrangements were made for smooth conduct of the course. 

Sau khi một nhân viên của nhà tù tham dự khóa thiền Vipassana 10 ngày, công việc lên kế hoạch bắt đầu. Địa điểm khóa thiền là khu vực khép kín bên trong cơ sở, gồm thiền đường với nhà ở liền kề nhau và khu vệ sinh. Những sự sắp đặt cần thiết để tổ chức khóa thiền diễn ra trôi chảy.

Inspite of various challenges and hardships, thirty-five women completed the course. On the concluding day, many of them spoke about the course and the powerful impact it had on them. A group of Vipassana meditators from a near by city, continued to meditate with them regularly.

Mặc dù có nhiều thử thách và khó khăn, ba mươi lăm phụ nữ đã hoàn thành khóa thiền. Trong ngày tổng kết, nhiều người trong số họ nói về khóa thiền và ảnh hưởng mạnh mẽ của nó lên họ. Một nhóm các hành giả Vipassana từ một thành phố lân cận, đã đến để thiền tập với họ thường xuyên.

The changes witnessed by the director of the women’s prison in the participants of Reclusión de Mujeres prison, convinced her of the value of the program, and later she attended a 10 day Vipassana course herself. In 2015, a course was arranged in the prison in Manizales, a medium-security prison complex near the city of Manizales and it was attended by 73 inmates. The course was completed successfully in Inspite of severe weather storm and other hardships. To read the full account of the course, please click here

Những thay đổi của những người tham gia của nhà tù Reclusion de Mujeres đã chứng kiến bởi của nữ giám đốc của nhà tù dành cho nữ, đã thuyết phục cô về giá trị của chương trình, và sau đó chính cô đã tham dự một khóa thiền Vipassana 10 ngày. Trong năm 2015, một khóa thiền được tổ chức tại nhà tù ở Manizales, một nhà tù phức hợp mức độ an ninh trung bình gần thành phố Manizales và có 73 tù nhân tham dự. Khóa thiền kết thúc thành công dù có một trận bão khắc nghiệt và vài khó khăn khác. Để đọc đầy đủ về đề mục của khóa thiền này, vui lòng nhấn vào đây.

(Excerpted from an article published in the International Vipassana Newsletter in the month of May 2013, Vol. 43 (2016), No. 2, Vol. 38, No. 3, July 2011, Vol. 43 (2016), No. 2  dated June 17, 2016)

(Trích từ một bài báo được công bố trên Bản tin International Vipassana ở tháng Năm 2013, Vol.43 (2016), No. 2, Vol. 38, No. 3, tháng Bảy 2011, Vol. 43 (2016), No. 2  vào ngày 17 tháng Sáu, 2016)

1 Số Videos Các Khoá Thiền Trong Tù

Nguồn VRIDhamma.org

Các bài viết trong sách

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app