Phần 4

Các bài Kinh bảo hộ (tụng trong 13 ngày) (tt)

6) Vaṭṭasuttaṃ

6) KINH CHIM CÚT

7) Dhajaggasuttaṃ

7) KINH ĐẦU LÁ CỜ 

8) Aṭānāṭiyasuttaṃ

8) Kinh Āṭānāṭiya

9) Kinh Aṅgulimāla

9) Kinh AṄGULIMĀLA

6) Vaṭṭasuttaṃ

 

Pūrentaṃ bodhisambhāre,

nibbattaṃ vaṭṭajātiyaṃ;

Yassa tejena dāvaggi,

mahāsattaṃ vivajjayi.

Therassa Sāriputtassa,

lokanāthena bhāsitam;

Kappaṭṭhāyiṃ mahātejaṃ,

parittaṃ taṃ bhaṇāma he.

 

Atthi loke sīlaguṇo, saccaṃ soceyyanuddayā;

tena saccena kāhāmi, saccakiriyamuttamaṃ.

 

Avejjetvā dhammabalaṃ, saritvā pubbake jine;

Saccabala’mavassāya, saccakiriyamakāsahaṃ.

 

Santi pakkhā apatanā, santi pādā avañcanā;

mātāpitā ca nikkhantā, jātaveda paṭikkama

 

Sahasacce kate mayhaṃ, mahāpajjalito sikhī;

vajjesi soḷasakarīsāni, udakaṃ patvā yathā sikhī;

saccena me samo natthi, esā me saccapāramī.

 

Vaṭṭasuttaṃ niṭṭhitaṃ

 

6) KINH CHIM CÚT

 

Vào thời hành các Bala mật,

Bồ tát tái sanh làm chim Cút

Thông qua uy lực của kinh này,

Đại sỹ thoát được ngọn lửa rừng

Do duyên ngài Xá lợi phất hỏi

Đức Thế Tôn tuyên thuyết kinh này,

Có uy lực trụ đến mãn Kiếp.

Ta hãy cùng tụng Hộ Kinh này.

 

Ở đời có giới đức, Chân thật, tịnh, từ bi,

Chính với chân thật ấy, Ta sẽ làm một hạnh,

Hạnh chân thật vô thượng.

 

Hay hướng niệm Pháp lực, Niệm chư Phật quá khứ,

Dựa sức mạnh chân thật, Ta làm hạnh chân thật.

 

Có cánh không bay được, Có chân không thể đi,

Cha mẹ đã bỏ ta, Hỡi lửa, hãy đi lui!

 

Ta làm hạnh chân thật, Màn lửa lớn lửa ngọn.

Đi lui mười sáu tầm, Như ngọn đuốc gặp nước.

Không ai sánh kịp ta, hạnh chân thật toàn hảo.

 

(Dứt bài kinh Chim cút)

7) Dhajaggasuttaṃ

 

Yassānussaranenāpi, antalikkhepi pāṇino;

Patiṭṭhamadhigacchanti, bhūmiyaṃ viya sabbathā.

 

Sabbupaddavajālamhā, yakkhacorādisambhavā;

Gaṇanā na ca muttānaṃ, parittaṃ taṃ bhaṇāma he.

 

Evaṃ me sutaṃ– ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi– “bhikkhavo”ti. “Bhadante”ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca–

“Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, devāsurasaṅgāmo samupabyūḷho

ahosi. Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo deve tāvatiṃse

āmantesi–

‘Sace, mārisā, devānaṃ saṅgāmagatānaṃ uppajjeyya bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā, mameva tasmiṃ samaye dhajaggaṃ ullokeyyātha. Mamaṃ hi vo dhajaggaṃ ullokayataṃ yaṃ bhavissati bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā, so pahīyissati.

No ce me dhajaggaṃ ullokeyyātha, atha pajāpatissa devarājassa dhajaggaṃ ullokeyyātha. Pajāpatissa hi vo devarājassa dhajaggaṃ ullokayataṃ yaṃ bhavissati bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā, so pahīyissati.

No ce pajāpatissa devarājassa dhajaggaṃ ullokeyyātha, atha varuṇassa devarājassa dhajaggaṃ ullokeyyātha. Varuṇassa hi vo devarājassa dhajaggaṃ ullokayataṃ yaṃ bhavissati bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā, so pahīyissati.

No ce varuṇassa devarājassa dhajaggaṃ ullokeyyātha, atha īsānassa devarājassa dhajaggaṃ ullokeyyātha. Isānassa hi vo devarājassa dhajaggaṃ ullokayataṃ yaṃ bhavissati bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā, so pahīyissatī’ti.

7) KINH ĐẦU LÁ CỜ

 

Chỉ mới nghĩ đến, bài hộ kinh này,

mà các chúng sanh, trong khắp các phương,

ở trong hư không, cũng như trên đất,

đều được hộ trì, thoát lưới tai ương,

từ cướp, dạ xoa.., vô số không xuể,

hỡi các tôn giả, hãy cùng tụng lên bài Hộ Kinh này.

 

Tôi được nghe như vầy – Một thời Đức Thế Tôn trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika. Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “– Này các Tỷ-kheo.” “– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.” Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau –

“Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, một cuộc chiến dữ dội khởi lên giữa chư Thiên và các Asùra. Rồi này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka gọi chư Thiên ở Tam thập tam thiên –

“– Này thân hữu, khi các Ông lâm chiến, nếu sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên; lúc ấy, các Ông hãy nhìn nơi đầu ngọn cờ của ta. Khi các Ông nhìn lên đầu ngọn cờ của ta, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược sẽ tiêu diệt.

 

Nếu các Ông không ngó lên đầu ngọn cờ của ta, thời hãy ngó lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Pajàpati. Khi các Ông ngó lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Pajàpati, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, cũng sẽ tiêu diệt.

Nếu các Ông không ngó lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Pajàpati, hãy ngó lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Varuna. Khi các Ông ngó lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Varuna, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên cũng sẽ tiêu diệt.

Nếu các Ông không ngó lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Varuna, hãy ngó lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Isàna. Khi các Ông ngó lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Isàna, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, cũng sẽ tiêu diệt.”

Taṃ kho pana, bhikkhave, sakkassa vā devānamindassa dhajaggaṃ ullokayataṃ, pajāpatissa vā devarājassa dhajaggaṃ ullokayataṃ, varuṇassa vā devarājassa dhajaggaṃ ullokayataṃ, īsānassa vā devarājassa dhajaggaṃ ullokayataṃ yaṃ bhavissati bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā, so pahīyethāpi nopi pahīyetha.

Taṃ kissa hetu? Sakko hi, bhikkhave, devānamindo avītarāgo avītadoso avītamoho bhīru chambhī utrāsī palāyīti.

 

Ahañca kho, bhikkhave, evaṃ vadāmi– ‘sace tumhākaṃ, bhikkhave, araññagatānaṃ vā rukkhamūlagatānaṃ vā suññāgāragatānaṃ vā uppajjeyya bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā, mameva tasmiṃ samaye anussareyyātha–

‘itipi so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho

vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū

anuttaro purisadammasārathi

satthādevamanussānaṃ buddho bhagavā’ti.

Mamaṃ hi vo, bhikkhave, anussarataṃ yaṃ bhavissati bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā, so pahīyissati.

No ce maṃ anussareyyātha, atha dhammaṃ anussareyyātha–

‘svākkhāto bhagavatā dhammo

sandiṭṭhiko akāliko

ehipassiko opaneyyiko

paccattaṃ veditabbo viññūhī’ti.

Dhammaṃ hi vo, bhikkhave, anussarataṃ yaṃ bhavissati bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā, so pahīyissati.

No ce dhammaṃ anussareyyātha, atha saṅghaṃ anussareyyātha–

‘suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho

ujuppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho

ñāyappaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho

sāmīcippaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho,

yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā

esa bhagavato sāvakasaṅgho,

āhuneyyo pāhuneyyo dakkhiṇeyyo

añjalikaraṇīyo anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā’ti.

Này các Tỷ-kheo, khi họ nhìn lên đầu ngọn cờ của Thiên chủ Sakka, hay khi họ nhìn lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Pajàpati, hay khi họ nhìn lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Varuna, hay khi họ nhìn lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Isàna, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược được khởi lên, có thể sẽ biến diệt và sẽ không biến diệt.

Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, vì Thiên chủ Sakka chưa đoạn diệt tham, chưa đoạn diệt sân, chưa đoạn diệt si, còn nhát gan, hoảng hốt, hoảng sợ, hoảng chạy.

Và này các Tỷ-kheo, Ta nói như sau: Này các Tỷ-kheo, khi các Ông đi vào rừng, đi đến gốc cây hay đi đến nhà trống, nếu run sợ, hoảng hốt, hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, trong khi ấy hãy niệm nhớ đến Ta:

“Ngài là Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri,

Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,

Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,

Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn”.

Này các Tỷ-kheo, khi các Ông niệm nhớ đến Ta, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, sẽ được tiêu diệt.

Nếu các Ông không niệm nhớ đến Ta, hãy niệm nhớ đến Pháp:-

“Đây là Pháp do Thế Tôn khéo thuyết,

thiết thực hiện tại, có quả tức thời,

đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng,

do người trí tự mình giác hiểu.”

Này các Tỷ-kheo, khi các Ông niệm nhớ đến Pháp, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên sẽ tiêu diệt.

Nếu các Ông không niệm nhớ đến Pháp, hãy niệm nhớ đến chúng Tăng: –

“Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Thiện hạnh;

chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Trực hạnh;

chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Chánh hạnh;

chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Như pháp hạnh,

tức là bốn đôi, tám chúng.

Chúng Tăng đệ tử này của Thế Tôn đáng được cúng dường,

đáng được hiến dâng, đáng được bố thí, đáng được chấp tay,

là vô thượng phước điền ở trên đời.”

Saṅghaṃ hi vo, bhikkhave, anussarataṃ yaṃ bhavissati bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā, so pahīyissati.

Taṃ kissa hetu? Tathāgato hi, bhikkhave, arahaṃ sammāsambuddho vītarāgo vītadoso vītamoho abhīru acchambhī anutrāsī apalāyī”ti. Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā–

 

“Araññe rukkhamūle vā,

suññāgāreva bhikkhavo;

anussaretha sambuddhaṃ,

bhayaṃ tumhāka no siyā.

 

“No ce buddhaṃ sareyyātha,

lokajeṭṭhaṃ narāsabhaṃ;

atha dhammaṃ sareyyātha,

niyyānikaṃ sudesitaṃ.

 

“No ce dhammaṃ sareyyātha,

niyyānikaṃ sudesitaṃ;

atha saṅghaṃ sareyyātha,

puññakkhettaṃ anuttaraṃ.

 

“Evaṃ buddhaṃ sarantānaṃ,

dhammaṃ saṅghañca bhikkhavo;

bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā,

lomahaṃso na hessati.

 

Dhajaggasuttaṃ niṭṭhitaṃ

Này các Tỷ-kheo, khi các Ông niệm nhớ đến chúng Tăng, thời sợ hãi, hoảng hốt, hay lông tóc dựng ngược có khởi lên sẽ tiêu diệt.

Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đã ly tham, ly sân, ly si, không nhát gan, không hoảng hốt, không hoảng sợ, không hoảng chạy. Thế Tôn nói như vậy, Thiện Thệ nói vậy xong, bậc Đạo Sư nói tiếp: –

 

Này các vị Tỷ-kheo,

Trong rừng hay gốc cây,

Hay tại căn nhà trống,

Hãy niệm bậc Chánh Giác.

Các Ông có sợ hãi,

Sợ hãi sẽ tiêu diệt.

Nếu không tư niệm Phật,

Tối thượng chủ ở đời,

Và cũng là Ngưu vương,

Trong thế giới loài Người,

Vậy hãy tư niệm Pháp,

Hướng thượng, khéo tuyên thuyết.

Nếu không tư niệm Pháp,

Hướng thượng, khéo tuyên thuyết,

Vậy hãy tư niệm Tăng,

Là phước điền vô thượng.

Vậy này các Tỷ-kheo,

Như vậy tư niệm Phật,

Tư niệm Pháp và Tăng,

Sợ hãi hay hoảng hốt,

Hay lông tóc dựng ngược,

Không bao giờ khởi lên.

 

(Dứt bài kinh Đầu lá cờ)

8) Āṭānāṭiyasuttaṃ

 

Appasannehi Nāthassa, sāsane sādhusammate;

Amanussehi caṇḍehi, sadā kibbisakāribhi.

Parisānaṃ catassannaṃ, ahiṃsāya ca guttiyā;

Yaṃ desesi Mahāviro, parittaṃ taṃ bhaṇāma he.

 

Vipassissa ca namatthu, cakkhumantassa sirīmato;

Sikhissapi ca namatthu, sabbabhūtānukampino.

Vessabhussa ca namatthu, nhātakassa tapassino;

Namatthu kakusandhassa, mārasenāpamaddino.

Koṇāgamanassa namatthu, brāhmaṇassa vusīmato;

Kassapassa ca namatthu, vippamuttassa sabbadhi.

Aṅgirasassa namatthu, sakyaputtassa sirīmato;

Yo imaṃ dhammaṃ desesi, sabbadukkhapanūdanam.

 

Ye cāpi nibbutā loke, yathābhutaṃ vipassisuṃ;

Te janā apisuṇātha mahantā vītasārada.

Hitaṃ devamanussānaṃ yaṃ namassanti Gotamaṃ;

Vijjācaraṇasampannaṃ mahantaṃ vītasāradaṃ.

 

Ete caññe ca sambuddhā, anekasatakotiyo;

Sabbe Buddhā samasamā, sabbe Buddhā mahiddhikā.

Sabbe dasabalūpetā, vesārajjehupāgatā;

Sabbe te paṭijānanti, āsabhaṃ ṭhānamuttamaṃ.

 

Sīhanādaṃ nadante’te, parisāsu visāradā;

Brahmacakkaṃ pavattenti, loke appaṭivattiyaṃ.

Upetā Buddha-dhammehi, aṭṭhārasahi nāyakā;

Bāttiṃsalakkhaṇupeta, sītānubyañjanādharā.

8) KINH ĀṬĀNĀṬIYA.

 

Vì khiến kẻ vô tín, hàng phi nhân tàn ác,

những ai hay phạm tội, phải tôn kính Phật Pháp.

Khiến hộ trì vô hại, cho bốn đôi Tăng chúng

Chúng ta hãy tụng lên. Kinh của Đấng Đại Hùng.

 

Đảnh lễ Vipassi (Tỳ-bà-thi), Sáng suốt và huy hoàng!

Đảnh lễ đấng Sikhi (Thi-khí), Có lòng thương muôn loài!

Đảnh lễ Vessabha (Tỳ-xá-bà), Thanh tịnh, tu khổ hạnh!

Đảnh lễ Kakusandha (Câu-lâu-tôn), Vị nhiếp phục ma quân!

Đảnh lễ Koṇāgamana, (Câu-na-hàm), Bà-la-môn viên mãn!

Đảnh lễ Kassapa (Ca-diếp), Vị giải thoát muôn mặt!

Đảnh lễ Angirasa, Vị Thích tử huy hoàng,

Đã thuyết chơn diệu pháp, Diệt trừ mọi khổ đau!

 

Ai yểm ly thế giới, Nhìn đời đúng như chơn,

Vị ấy không hai lưỡi, Bậc vĩ đại thanh thoát.

Cùng đảnh lễ Gotama, Lo an lạc Nhơn Thiên

Trì giới đức viên mãn! Bậc vĩ đại thanh thoát!

 

Ngài cùng chư Chánh Giác, ngàn vạn vị như thế,

Tất cả lực chư Phật, thảy tương đồng như nhau.

Chư Phật có mười lực, các Ngài đều tuyên thuyết,

Đạt đến nơi không sợ, nơi tối thượng Ngưu Vương.

 

Các Ngài giữa hội chúng, rống lên tiếng sư tử,

Chuyển vân tại thế gian, bánh xe Pháp bất thối.

Các Đức Đạo sư ấy, đủ mười tám Pháp Phật

Ba mươi hai tướng tốt, cùng tám mươi tướng phụ.

Byāmappabhāya suppabhā, sabbe te munikuñjarā;

Buddhā sabbaññuno ete, sabbe khīṇasavā jinā.

Mahāpabhā mahātejā, mahāpabbā mahabbalā;

Mahakāruṇikā dhīrā, sabbesānaṃ sukhāvahā.

 

Dīpā nāthā patiṭṭhā ca, tāṇā leṇā ca pāṇinaṃ;

Gatī bandhu mahessāsā, saraṇā ca hitesino.

Sadevakassa lokassa, sabbe ete parāyaṇā;

Tesā’haṃ sirasā pāde, vandāmi purisuttame.

 

Vacasā manasā ceva, vandām’ete Tathāgate;

Sayane āsane ṭhāne, gamane cāpi sabbadā.

Sadā sukkhena rakkhantu, Buddhā santikarā tuvaṃ;

Tehi tvaṃ rakkhito santo, mutto sabbabhayehi ca.

 

Sabbarogā vinīmutto, sabbasantāpa vajjito;

Sabbaveram’atikkanto, nibbuto ca tuvaṃ bhava.

Tesaṃ saccena sīlena, khantimettābalena ca;

Tepi amhe’nurakkhantu, Arogena sukhena ca.

 

Puratthimasmiṃ disābhāge, santi bhūtā mahiddhikā;

Tepi amhe’nurakkhantu, arogena sukhena ca.

Dakkhiṇasmim disābhāge, santi devā mahiddhikā;

Tepi amhe’nurakkhantu, arogena sukhena ca.

 

Pacchimasmiṃ disābhāge, santi nāgā mahiddhikā;

Tepi amhe’nurakkhantu, arogena sukhena ca.

Uttarasmiṃ disābhāge, santi yakkhā mahiddhika;

Tepi amhe’nurakkhantu, arogena sukhena ca.

Hào quang tỏa một tầm, các Ngài dòng Mu-ni,

Bậc có tất cả trí, đã chiến thắng, lậu tận.

Sáng ngời uy lực lớn, Trí tuệ cùng Từ bi,

Lực ấy lớn rộng khắp, các vị Đấng Phúc lành!

 

Là hải đảo lánh nạn, là dòng tộc đại an,

Là nơi dừng nhiêu ích, chúng sanh quay về nương,

Con đê đầu lễ kính, dưới chân bậc thượng sĩ,

Các Đức Phật đều là, nơi nhân thiên nương tựa.

 

Trong tất cả mọi thời, đi, đứng hay nằm ngồi,

Thông qua ý cùng lời, lễ kính chư Như lai.

Nguyện chư Phật tịch tịnh, gia hộ con bình an,

Nguyện các Ngài bảo hộ, con thoát điều sợ hãi.

 

Tất cả tật bệnh hết, lánh xa điều phiền não,

Chinh phục các oán hận, mong con sống tĩnh an.

Con dùng lời chân thật, nhờ sức nhẫn, từ bi,

Nguyện các Ngài gia hộ, con bình an, hạnh phúc.

 

Ở về nơi hướng Đông, có qủy thần đại lực,

Nguyện các vị hộ trì, con bình an, hạnh phúc.

Ở về nơi hướng Tây, có chư thiên đại lực,

Nguyện các vị hộ trì, con bình an, hạnh phúc.

 

Ở về nơi hướng Nam, có chư rồng đại lực,

Nguyện các vị hộ trì, con bình an, hạnh phúc.

Ở về nơi hướng Bắc, có dạ xoa đại lực,

Nguyện các vị hộ trì, con bình an, hạnh phúc.

Puratthimena Dhataraṭṭho,

dakkhiṇena Virūḷhako;

Pacchimena Virūpakkho,

Kuvero uttaraṃ disaṃ.

 

Cattaro te mahārājā,

lokapālā yasassino;

Tepi amhe’nurakkhantu,

arogena sukhena ca.

 

Akāsatthā ca bhūmaṭṭha,

devā nāgā mahiddhikā;

Tepi amhe’nurakkhantu,

arogena sukhena ca.

 

Iddhimanto ca ye devā,

vasantā idha sāsane;

Tepi amhe’nurakkhantu,

arogena sukhena ca.

 

Sabbītiyo vivajjantu,

soko rogo vinassatu;

Mā te bhavantvantarāyā,

sukhī dīghāyuko bhava.

 

Abhivādanasīlissa,

niccaṃ vuḍḍhāpacāyino;

Cattāro dhammā vaḍḍhanti,

āyu vaṇṇo sukhaṃ balaṃ.

 

Aṭānāṭiyasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

Đông: Thiên vương Trì Quốc (Dhataraṭṭha)

Nam: Thiên vương Tăng Trưởng (Virūḷhaka)

Tây: Thiên vương Quảng Mục (Virūpakkha)

Bắc: Thiên vương Kuvera

 

Bốn vị Đại Thiên Vương,

có danh hộ thế gian

Nguyện các vị hộ trì,

con bình an hạnh phúc.

 

Chư thiên, long đại lực,

Nơi hư không mặt đất,

Nguyện các vị hộ trì,

con bình an hạnh phúc.

 

Chư thiên có thần thông,

Sống trong Giáo Pháp này,

Nguyện các vị hộ trì,

con bình an hạnh phúc.

 

Nguyện tai họa lánh xa,

Tật bệnh, ưu sầu hết,

Nguyện con không chướng ngại,

Được an ổn, sống lâu.

 

Ai thường hay kính lễ,

Đến những bậc đáng kính,

Được tăng trưởng bốn pháp,

Vui, đẹp, khỏe và thọ.

 

(Dứt bài kinh A-sá-năng-chi (Aṭānāṭiya))

9) Aṅgulimālasuttaṃ

 

Parittaṃ yaṃ bhaṇantassa, nisinnaṭṭhānadhovanaṃ;

Udakampi vināseti, sabbameva parissayaṃ.

Sotthinā gabbhavuṭṭhānaṃ, yañca sādheti taṅkhaṇe;

Therassa’ṅgulimalassa, Lokanāthena bhāsitaṃ;

Kappaṭṭhāyiṃ mahātejaṃ, parittaṃ taṃ bhaṇāma he.

 

“Yatohaṃ, bhagini, ariyāya jātiyā jāto,

Nābhijānāmi sañcicca pāṇaṃ jīvitā voropetā,

Tena saccena sotthi te hotu, sotthi gabbhassa.”

 

Aṅgulimālasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

9) Kinh AṄGULIMĀLA

 

Ngay cả nước để rửa chổ ngồi vị đã nói lên Hộ kinh này cũng có

thể làm tiêu tan tất cả những tai ương và đem lại tức thì sự khai nở dễ

dàng cho sanh phụ.

Này các hiền giả, Chúng ta hãy tụng lên Bài hộ Kinh, được Đấng

Bảo Hộ dạy cho Tôn giả Aṅgulimāla, có oai lực cho đến mãn Kiếp.

 

“Hỡi hiền tỷ! Từ khi tôi được sanh vào dòng Thánh đến nay,

tôi chưa bao giờ cố ý giết hại mạng sống của chúng sanh,

mong với sự thật này, hiền tỷ được an lành, khai sản được an lành”

 

(Dứt bài kinh Aṅgulimāla)

 

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app