Phần 2

Kinh tụng buổi tối (6h00)

Mahānamakkārapāḷi

ĐẠI THI LỄ KỆ

KINH TỤNG

BUỔI TỐI

6h00 tối

Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa

 

Mahānamakkārapāḷi

01.

Sugataṃ sugataṃ seṭṭhaṃ,

kusalaṃkusalaṃ jahaṃ;

Amataṃ amataṃ santaṃ,

asamaṃ asamaṃ dadaṃ.

Saraṇaṃ saraṇaṃ lokaṃ,

araṇaṃ araṇaṃ karaṃ;

Abhayaṃ abhayaṃ ṭhānaṃ,

nāyakaṃ nāyakaṃ name.

 

02.

Nayanasubhagakāyaṅgaṃ,

Madhuravarasaropetaṃ;

Amitaguṇagaṇādhāraṃ,

Dasabalamatulaṃ vande.

 

03.

Yo buddho dhitimāññadhārako,

Saṃsāre anubhosi kāyikaṃ;

Dukkhaṃ cetasikañca lokato,

Taṃ vande naradevamaṅgalaṃ.

 

04.

Bāttiṃsatilakkhaṇacitradehaṃ,

Dehajjutiniggatapajjalantaṃ;

Paññādhitisīlaguṇoghavindaṃ,

Vande munimantimajātiyuttaṃ.

Kính lễ Đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Đấng Chánh Đẳng Giác

 

ĐẠI THI LỄ KỆ

01.

Đức Thiện thệ – Đấng Bảo ngôn , tối thượng,

đã từ bỏ thiện cùng bất thiện;

đạt tịnh lạc bất diệt, là Vị bất tử Pháp thân,

Bậc Vô song, đã ban bố Pháp vô song,

Vị Bảo hộ, cho thế gian nương tựa,

Vị Vô nhiễm, khiến hữu tình vô nhiễm;

Đấng Vô úy, đưa chúng sanh về nơi vô úy,

Đức Thế Tôn, Đấng siêu thế Pháp chủ,

(dẫn đầu hữu tình đến Đạo Quả và giải thoát) con kính lễ.

 

02.

Vị mãn nhãn người nhìn bằng sáng ngời thân trượng,

và giọng nói Phạm vương làm khả ái người nghe,

Bậc đã tích lũy vô lượng công đức chẳng ai bằng,

xin kính lễ Đấng Thập lực vô tỷ.

 

03.

Phật-đà ấy, Người dương cao lọng trắng,

trong luân hồi, cam thọ mọi khổ thân,

vì thế gian, nhẫn bao cảnh trầm luân,

Ngài, Phúc lành của Thiên nhân, xin kính lễ.

 

04.

Bậc toàn mỹ ba mươi hai Đại Nhân tướng,

chói sáng bằng sáu sắc ánh hào quang,

con kính lễ Đức Muni, trong kiếp sống cuối cùng,

đã tột đỉnh viên thành công đức Giới Định Tuệ.

05.

Pātodayaṃ bāladivākaraṃva,

Majjhe yatīnaṃ lalitaṃ sirīhi;

Puṇṇindusaṅkāsamukhaṃ anejaṃ,

Vandāmi sabbaññumahaṃ munindaṃ.

 

06.

Upetapuñño varabodhimūle,

Sasenamāraṃ sugato jinitvā;

Abojjhi bodhiṃ aruṇodayamhi,

Namāmi taṃ mārajinaṃ abhaṅgaṃ.

 

07.

Rāgādichedāmalañāṇakhaggaṃ,

Satīsamaññāphalakābhigāhaṃ;

Sīloghalaṅkāravibhūsitaṃ taṃ,

Namāmibhiññāvaramiddhupetaṃ.

 

08.

Dayālayaṃ sabbadhi dukkaraṃ karaṃ,

Bhavaṇṇavātikkamamaggataṃ gataṃ;

Tilokanāthaṃ susamāhitaṃ hitaṃ,

Samantacakkhuṃ paṇamāmi taṃmitaṃ.

 

09.

Tahiṃ tahiṃ pāramisañcayaṃ cayaṃ,

Gataṃ gataṃ sabbhi sukhappadaṃ padaṃ;

Narānarānaṃ sukhasambhavaṃ bhavaṃ,

Namānamānaṃ jinapuṅgavaṃ gavaṃ.

 

10.

Maggaṅganāvaṃ munidakkhanāviko,

Īhāphiyaṃ ñāṇakarena gāhako;

Āruyha yo tāya bahū bhavaṇṇavā,

Tāresi taṃ buddhamaghappahaṃ name.

05.

Như vầng dương huy hoàng buổi sớm mai,

giữa chúng thánh hiền, oai linh Ngài hiển minh;

gương mặt tợ trăng rằm viên dung không ái nhiễm.

con kính lễ Đấng Toàn tri, Đấng Hiền vương Muni.

 

06.

Bên cội Bồ-đề qúy, Ngài viên thành Thánh phúc,

Đức Thiện Thệ đã toàn thắng bọn binh Ma,

lúc hửng đông, đạt quả vị Phật-đà.

con kính lễ Đấng Thắng ma – bất bại ấy.

 

07.

Dùng niệm làm khiên, dùng trí làm gươm bén,

trở thành Bậc Vô nhiễm nhờ đoạn sạch dục tham,…

Giới hạnh là tràng phang điểm châu qúy vô vàng,

con kính lễ Đấng thần thông thắng trí tối thượng.

 

08.

Đức Đại Bi, Người đã thực hành bao hạnh khó,

vượt qua biển sanh hữu, đạt tối thắng huyền vi;

Bậc Định lực phi phàm, là Chúa tể lợi lạc cho ba cõi.

con cúi mình đảnh lễ Đấng Biến mãn toàn tri.

 

09.

Tam Thập Đáo Bỉ Ngạn, trùng trùng kiếp tích lũy,

đạt đến vị Tịch tịnh, vĩnh viễn lạc – Niết bàn

Cho trời, người…, Ngài tuyên thuyết Pháp bình an,

Đấng Điều ngự trượng phu của thiên nhân, xin thi lễ.

 

10.

Đại Hiền! Vị chèo thuyền thuần thục, lên thuyền nan Bát Thánh,

mái chèo là tinh tấn, toàn giác trí là đôi tay,

kiên trì đưa bao người vượt thoát biển tử sanh.

Phật-đà ấy, Bậc đoạn khổ chúng sanh, xin kính lễ.

11.

Samatiṃsatipāramisambharaṇaṃ,

Varabodhidume catusaccadasaṃ;

Varamiddhigataṃ naradevahitaṃ,

Tibhavūpasamaṃ paṇamāmi jinaṃ.

 

12.

Satapuññajalakkhaṇikaṃ virajaṃ,

Gaganūpamadhiṃ dhitimerusamaṃ;

Jalajūpamasītalasīlayutaṃ,

Pathavīsahanaṃ paṇamāmi jinaṃ.

 

13.

Yo buddho sumati dive divākarova,

Sobhanto ratijanane silāsanamhi;

Āsīno sivasukhadaṃ adesi dhammaṃ,

Devānaṃ tamasadisaṃ namāmi niccaṃ.

 

14.

Yo pādapaṅkajamuduttalarājikehi,

Lokehi tīhivikalehi nirākulehi;

Sampāpuṇe nirupameyyatameva nātho,

Taṃ sabbalokamahitaṃ asamaṃ namāmi.

 

15.

Buddhaṃ narānarasamosaraṇaṃ dhitattaṃ,

Paññāpadīpajutiyā vihatandhakāraṃ;

Atthābhikāmanaradevahitāvahaṃ taṃ,

Vandāmi kāruṇikamaggamanantañāṇaṃ.

11.

Với Ba-la-mật tích lũy (từ thời Phật Dipaṅkara),

Bên cội bồ đề nguy nga Ngài chứng ngộ Tứ Thánh Đế,

đạt thắng trí tối thượng, (làm) lợi ích Thiên nhân,

con đảnh lễ Đấng Chiến Thắng, Bậc Tịch tịnh tam giới.

 

12.

Hàng trăm qúy tướng bởi phúc báu huân sanh vô ái nhiễm,

Toàn Giác trí rộng lớn tợ trời không,

Siêu Thánh Định như Meru núi chúa;

Tuyền Giới tợ hoa Sen, nhẫn nại đồng Địa Đại,

Đấng Huy hoàng chiến thắng ấy, năm vóc con đảnh lễ.

 

13.

Ôi Phật-đà! Đại trí Tuệ như vầng dương giữa ngọ,

Ngài ngự trên hòn đá kaṇḍukambalā sanh thiên lạc,

thuyết Pháp vi diệu (cho thiên tử – ân mẫu xưa),

và ban bố cát tường phỷ lạc đến vô số Phạm thiên,

con thường kính lễ Đấng Tam học vô song ấy.

 

14.

Vị Chân-sen có hàng trăm tướng tròn nơi bàn chân mềm mại,

Giữa tam thế rối tinh đã khéo giải thoát, thanh tịnh hoàn toàn;

đạt được vậy, Ngài trở thành vị Bảo hộ vô biên,

Đấng Toàn thế kính ngưỡng vô song ấy con kính lễ.

 

15.

Bậc Định lực thù thắng, Người cho nhân-phi nhân gặp mặt,

Là ngọn Tuệ đăng chói sáng xua tan bóng vô minh,

thấy và nói lên sự thật lợi ích cho thiên nhân hằng hy nguyện,

con thi lễ Phật-đà, Đấng Vô biên Trí, Vô lượng Bi mẫn ấy.

 

16.

Akhilaguṇanidhāno yo munindopagantvā,

Vanamisipatanavhaṃ saññatānaṃ niketaṃ;

Tahimakusalachedaṃ dhammacakkaṃ pavatto,

Tamatulamabhikantaṃ vandaneyyaṃ namāmi.

 

17.

Suciparivāritaṃ surucirappabhāhi rattaṃ,

Sirivisarālayaṃ gupitamindriyehupetaṃ;

Ravisasimaṇḍalappabhutilakkhaṇopacittaṃ,

Suranarapūjitaṃ sugatamādaraṃ namāmi.

 

18.

Maggoḷumpena muhapaṭighāsādiullolavīciṃ,

Saṃsāroghaṃ tari tamabhayaṃ pārapattaṃ pajānaṃ;

Tāṇaṃ leṇaṃ asamasaraṇaṃ ekatitthaṃ patiṭṭhaṃ,

Puññakkhettaṃ paramasukhadaṃ dhammarājaṃ namāmi.

 

19.

Kaṇḍambaṃmūle parahitakaro yo munindo nisinno,

Accheraṃ sīghaṃ nayanasubhagaṃ ākulaṇṇaggijālaṃ;

Dujjāladdhaṃsaṃ munibhijahitaṃ pāṭiheraṃ akāsi,

Vande taṃ seṭṭhaṃ paramaratijaṃ iddhidhammehupetaṃ.

16.

Với toàn bộ công đức đã tích lũy, Bậc Đại Thánh thẳng đến

khu vườn có tên Isipatana, nơi trú của những vị khổ hạnh;

tại nơi ấy, Ngài chuyển vận bánh xe Pháp đoạn trừ bất thiện

(khiến chư thiên trong mười ngàn thế giới tán thán tung hô).

Con kính lễ Đấng Mãn Chí Vô song đáng kính lễ!

 

17.

Khi đêm xuống, kim thân Ngài tỏa hào quang sáng dịu,

Oai nghiêm giữa các vị thanh tịnh Thánh đệ tử xung quanh,

Đấng vô vàng quang vinh – Bậc đầy đủ hộ căn an tĩnh;

Dưới bàn chân là tướng Maṇḍala tợ Nhật Nguyệt dị thường –

(Đại hảo tướng của Đức Chuyển Luân Vương),

con kính lễ Đức Thiện thệ, Đấng được thiên nhân kính phụng.

 

18.

Lũ luân hồi hiểm nguy bao cuồng phong sóng dữ,

Ngài, bằng bè Thánh đạo, phi thường đã vượt qua,

an toàn cập bờ kia là bến bờ độc nhất, là ruộng nương công đức,

chỗ an cư, nương náu không gì bằng (của biết bao hữu tình).

Con kính lễ Đấng Pháp Vương, Bậc cho lạc tối thượng.

 

19.

Đức Muni vương ấy, đã làm điều lợi ích đến chúng sanh;

ngồi bên cây Kaṇḍamba thị hiện song thông

từ châu thân phóng ra đồng thời nước và lửa,

biến thần tốc, phi thường, và ngoạn mục;

hủy diệt lưới tà kiến của ngoại đạo,

thị hiện oai linh chư Phật bao đời,

(khiến những ai chứng kiến đều hoan hỷ khó quên),

Đấng viên mãn thần thông, nguồn khởi sanh thắng lạc,

Bậc Vô thượng xưng tán ấy, xin thi lễ.

20.

Munindakko yeko dayudayaruṇo ñāṇavitthiṇṇabimbo,

Vineyyappāṇoghaṃ kamalakathitaṃ dhammaraṃsīvarehi;

Subodhesī suddhe tibhavakuhare byāpitakkittinañca,

Tilokekaccakkhuṃ dukhamasahanaṃ taṃ mahesiṃ namāmi.

 

21.

Yo jino anekajātiyaṃ

saputtadāramaṅgajīvitampi,

Bodhipemato alaggamānaso

adāsiyeva atthikassa;

Dānapāramiṃ tato paraṃ apūri sīlapāramādikampi,

Tāsamiddhiyopayātamaggataṃ tamekadīpakaṃ namāmi.

 

22.

Devādevātidevaṃ nidhanavapudharaṃ

mārabhaṅgaṃ abhaṅgaṃ,

Dīpaṃ dīpaṃ pajānaṃ

jayavarasayane bodhipattaṃdhipattaṃ;

Brahmābrahmāgatānaṃ

varagirakathikaṃ pāpahīnaṃ pahīnaṃ,

Lokālokābhirāmaṃ satatamabhiname

taṃ munindaṃ munindaṃ.

 

20.

Đức Hiền vương, là mặt trời độc tôn (giữa muôn ngàn thế gian),

lòng đại bi như ánh ban mai (biến mãn huy hoàng),

Toàn giác trí, tợ trời không, quảng đại,

Bậc khéo khai sáng Pháp-châu nơi vô vàng sanh loại,

Bậc như Sen, tỏa hương thơm, tinh khiết giữa tam hữu đầm lầy,

Con kính lễ Đức Đại Khổ nhẫn, Đại Hiền Sĩ vang danh,

Là Đạo nhãn độc nhất của nhân gian, thiên giới, …

 

21.

Đấng Chiến Thắng, Ngài đã phát nguyện vô thượng Bồ-đề,

trong nhiều kiếp, đem vợ con, thân thể, cùng sanh mạng,..

cho đến người hỏi xin với tâm không luyến tiếc;

Bố thí độ, Trì giới độ,… cả ba bực đều thực hành như thế,

Đấng Tam thập độ viên mãn tối thượng –

Ngọn Hải đảo độc nhất ấy, con kính lễ.

 

22.

Giữa Tam thiên, Vị Thanh tịnh Thiên chủ thù thắng-

Vị hàng ma không bại trong thọ thân cuối cùng –

Ngọn tuệ đăng thắp sáng đến chúng sanh,

giữa toàn thể chư thiên, chư Phạm thiên,

đã xuyên thủng màn vô minh thoát ra trước nhất.

đạt được Thánh Đạo – Thánh Quả cùng Toàn giác trí

ngay trên tòa kim cang tối thượng,

Phạm thiên, phi phạm thiên hằng hà tụ hội,

Ngài diễn thuyết Pháp âm cao thượng

để tận trừ các pháp hạ liệt, thấp hèn;

khiến nhân giới – thiên giới đồng khấp khởi hân hoan,

trọn năm vóc, con thường lễ Đấng Quyền Vương Muni ấy

23.

Buddho

nigrodhabimbo

Mudukaracaraṇo

Brahmaghoseṇijaṅgho,

Kosacchādaṅgajāto

Punarapi Sugato

Suppatiṭṭhitapādo;

Mūdodātuṇṇalomo

athamapi Sugato

Brahmujuggattabhāvo,

Nīlakkhī dīghapaṇhī

Sukhumamalachavī

Thomyarasaggasaggī.

 

24.

Cattālīsaggadanto

Samakalapanajo

Antaraṃsappapīno,

Cakkenaṅkitapādo

Aviraḷadasano

Mārajussaṅkhapādo.

Tiṭṭhanto

Nonamantobhayakaramudunā

Jaṇṇukānāmasanto,

Vaṭṭakkhandho jino

Gotaruṇapakhumako

Sīhapubbaḍḍhakāyo.

(Thi Kệ số 23, 24, 25 liệt kê 32 Hảo tướng của Phật)

 

23.

Phật-đà có:

Thân thẳng tròn cân đối như cây đa (1) ,

bàn tay, chân mềm mại và sáng đẹp (2),

Giọng nói như Phạm thiên vương (3),

ống chân như Tuần lộc (4),

cùng tướng mã âm tàng (5),

lòng bàn chân phẳng bằng không khuyết lõm (6),

giữa hai chân mày có bạch hào trắng mịn tợ bông tơ (7),

thêm nữa, Thiện Thệ có

thân trượng cao lớn như Phạm thiên (8),

Đôi mắt màu nâu thẳm (9), hai gót chân dài, đầy đặn (10),

da mịn không dính bụi nhơ (11),

có vị giác tinh nhạy (12),

 

24.

Đấng Chiến thắng ấy:

Có bốn mươi răng tuyệt đẹp trắng sáng (13), thẳng đều (14),

thân hình cân – Sống lưng phẳng đầy không khuyết lõm (15),

lòng bàn chân có tướng bánh xe (16),

răng khít không có kẻ hở (17),

Vị hàng ma có mắt cá chân nhô cao tròn trịa (18),

khi đứng thẳng, lưng không cong có thể chạm gối với hai bàn tay mềm (19),

cổ đầy đặn như thân cái trống cơm (20),

lông mi như của bê con (21),

thân trên như của sư tử (22),

25.

Sattappīno ca

dīghaṅguli matha

Sugato lomakūpekalomo,

Sampannodātadāṭho

Kanakasamataco

Nīlamuddhaggalomo.

 

Sambuddho thūlajivho atha

Sīhahanuko jālikappādahattho,

Nātho uṇhīsasīso itiguṇasahitaṃ

taṃ mahesiṃ namāmi.

 

26.

Buddhobuddhotighoso atidulabhataro kā kathā buddhabhāvo,

Loke tasmā vibhāvī vividhahitasukhaṃ sādhavo patthayantā.

Iṭṭhaṃ atthaṃ vahantaṃ suranaramahitaṃ nibbhayaṃ dakkhiṇeyyaṃ,

Lokānaṃ nandivaḍḍhaṃ dasabalamasamaṃ taṃ namassantu niccaṃ.

 

(Mahānamakkāra pāḷi, kathā 1-26)

(Aṭṭhakathācariya Mahā Buddhaghosa)

25.

Đấng Thiện Lai có:

bảy chổ đầy đặn (23), ngón tay, ngón chân thon dài (24),

lại nữa, mỗi chân lông chỉ có một sợi (25),

bốn răng trụ sáng tinh tợ sao mai (26),

màu da sáng hệt sắc vàng ròng (27)

lông trên thân mịn màu nâu thẳm,

mọc xoáy thẳng hướng lên mặt (28)

Đấng Chánh Giác có lưỡi mềm rộng dài (29),

quai hàm như của sư tử (30), tay chân có màng da lưới mịn (31),

Đức Độ sanh có nhục kế trên đầu (32)

con xin đảnh lễ Đấng Đại Tiên, (Đấng Đại Hành – đã thực hành

tích lũy trọn vẹn những công đức thù thắng ấy.)

 

26.

Hy hữu thay sự xuất hiện Phật vị trong thế gian,

và nghe được âm thanh “Phật-đà! Phật-đà! (Buddha)”,

Vì lẽ ấy, này hỡi những hiền nhân! này hỡi những trí giả!

Hỡi những ai thường nguyện cầu những điều lợi ích, an vui!.

Hãy năng kính lễ Ngài:

– Đấng Phúc nguyện như ý, Đấng trưởng hỷ cho thế gian,

– Đấng Ứng cúng thù thắng, Đấng Thiên nhân kính phụng,

– Đấng Thập Lực Vô tỷ, Đấng Vô úy an lành.

 

(Kệ thứ 1- 26 trong bài kệ Mahānamakkāra Pāḷi Miến trang 5)

(Chú giải sư – Trưởng Lão Mahā Buddhaghosa)

 

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app