Nội Dung Chính

Thực-Hành Pháp-Hành Thiền-Tuệ

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, rồi chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn. Hành-giả  cần  phải  học  và  hành  theo  tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế.

1- Sacca ñāṇa: Trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế.

2- Kicca ñāṇa: Trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế.

3- Kata ñāṇa: Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế.

Hành-giả cần phải học và hành theo tuần tự trong tam-tuệ-luân như sau:

1- Bốn Trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, trước tiên cần phải học pháp-học trong tứ Thánh-đế đó là học 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế cho hiểu biết rõ chi pháp của mỗi Thánh-đế như sau:

1.1- Khổ-Thánh-đế đó là ngũ-uẩn chấp-thủ:

Ngũ-uẩn chấp-thủ nghĩa là ngũ-uẩn là đối- tượng của 4 pháp chấp-thủ trong đối-tượng:

– Kāmupādāna: Chấp-thủ trong ngũ-dục (sắc- dục, thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục) trong cõi dục-giới có chi pháp là tham tâm-sở đồng sinh với 8 tham-tâm.

– Diṭṭhupādāna: Chấp-thủ trong tà-kiến (ngoài sīlabbatupādāna  và  attavādupādāna)  có  chi pháp là tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham- tâm hợp với tà-kiến.

– Sīlabbatupādāna: Chấp-thủ trong pháp thường-hành  sai  lầm,  có  chi  pháp  là  tà-kiến  tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến.

– Attavādupādāna: Chấp-thủ trong ngũ-uẩn cho là ta, có chi pháp là tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến.

4 pháp chấp-thủ này trong tam-giới: dục-giới, sắc-giới, vô-sắc-giới.

Ngũ-uẩn chấp-thủ có 5 pháp đó là:

1- Sắc-uẩn chấp-thủ đó là 28 sắc-pháp, là đối-tượng của pháp chấp-thủ.

2- Thọ-uẩn chấp-thủ đó là thọ tâm-sở trong 81 tam-giới-tâm là đối-tượng của pháp chấp-thủ.

3- Tưởng-uẩn chấp-thủ đó là tưởng tâm-sở trong 81 tam-giới-tâm là đối-tượng của pháp chấp-thủ.

4- Hành-uẩn chấp-thủ đó là 50 tâm-sở (trừ thọ tâm-sở và tưởng tâm-sở) trong 81 tam-giới- tâm là đối-tượng của pháp chấp-thủ.

5- Thức-uẩn chấp-thủ đó là 81 tam-giới-tâm là đối-tượng của pháp chấp-thủ.

Ngũ-uẩn chấp-thủ này thuộc khổ-Thánh-đế là pháp nên biết.

– Chúng-sinh ở trong 11 cõi dục-giới và 15 cõi sắc-giới đều có đủ ngũ-uẩn.

– Chúng-sinh ở trong 4 cõi vô-sắc-giới chỉ có 4   danh-uẩn   (thọ-uẩn,   tưởng-uẩn,   hành-uẩn, thức-uẩn) mà thôi.

– Chúng-sinh ở trong cõi sắc-giới Vô-tưởng- thiên chỉ có 1 uẩn là sắc-uẩn mà thôi.

Mỗi tâm  phát sinh đều có đủ 4 danh-uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn).

Thật vậy, mỗi tâm phát sinh chắc chắn có số tâm-sở đồng sinh với tâm ấy.

– Tâm ấy thuộc về thức-uẩn.

– Thọ tâm-sở đồng sinh với tâm ấy thuộc về thọ-uẩn.

– Tưởng tâm-sở đồng sinh với tâm ấy thuộc về tưởng-uẩn.

– Số tâm-sở còn lại đồng sinh với tâm ấy thuộc về hành-uẩn.

– Vatthurūpa là nơi nương nhờ của tâm với tâm-sở ấy phát sinh thuộc về sắc-uẩn.

* Đối với chúng-sinh trú trong 11 cõi dục-giới và 15 cõi sắc-giới (trừ cõi Vô-tưởng-thiên), mỗi tâm phát sinh đều có đầy đủ ngũ-uẩn phát sinh.

* Đối với chúng-sinh trú trong 4 cõi vô-sắc- giới, mỗi tâm phát sinh đều có đầy đủ tứ-uẩn phát sinh.

* Đối với chúng-sinh trú trong cõi sắc-giới Vô-tưởng-thiên chỉ có nhất-uẩn là sắc-uẩn.

* Còn thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn trong 8 siêu-tam-giới-tâm (4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm) không phải là đối-tượng của 4 pháp chấp-thủ.

Như vậy, 28 sắc-pháp và 81 tam-giới-tâm và 51 tâm-sở (trừ tham tâm-sở) đều thuộc về khổ- Thánh-đế là pháp nên biết.

1.2-  Nhân  sinh  khổ-Thánh-đế  đó  là  tham tâm-sở gọi là tham-ái.

Tham-ái có 3 loại, 6 loại, 18 loại, 54 loại, 108 loại:

– Tham-ái có 3 loại đó là:

1- Kāmataṇhā: Dục-ái là tham-ái trong 6 đối- tượng ái (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc- ái, pháp-ái) trong cõi dục-giới.

2-  Bhavataṇhā:  Hữu-ái  là  tham-ái  trong  6 đối-tượng ái (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) hợp với thường-kiến, và tham- ái trong thiền sắc-giới, thiền vô-sắc-giới, trong cõi sắc-giới, cõi vô-sắc-giới.

3- Vibhavataṇhā: Phi-hữu-ái là tham-ái trong 6 đối-tượng ái (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) hợp với đoạn-kiến.

– Tham-ái có 6 loại đó là tham-ái trong 6 đối- tượng:

1- Sắc-ái (rūpataṇhā) là tham-ái trong đối- tượng sắc-dục.

2- Thanh-ái  (saddataṇhā)  là  tham-ái  trong đối-tượng thanh-dục.

3- Hương-ái (gandhataṇhā) là tham-ái trong đối-tượng hương-dục.

4-  Vị-ái  (rasataṇhā)  là  tham-ái  trong  đối- tượng vị-dục.

5- Xúc-ái (phoṭṭhabbataṇhā) là tham-ái trong đối-tượng xúc-dục.

6- Pháp-ái (dhammataṇhā) là tham-ái trong đối-tượng pháp-dục.

Tham-ái có 18 loại đó là 3 loại tham-ái nhân với 6 đối-tượng ái thành 18 loại tham-ái.

– Tham-ái có 54 loại đó là 18 loại tham-ái nhân với 3 thời (quá-khứ, hiện-tại, vị-lai) thành 54 loại tham-ái.

– Tham-ái có 108 loại đó là 54 loại tham-ái nhân với 2 (bên trong của mình và bên ngoài mình của người khác, đối-tượng khác) thành 108 loại tham-ái.

Các loại tham-ái thuộc về nhân sinh khổ- Thánh-đế là pháp nên diệt.

1.3 – Diệt khổ-Thánh-đế đó là Niết-bàn diệt nhân sinh khổ-Thánh-đế.

Niết-bàn có 2 loại đó là:

1- Hữu-dư Niết-bàn (sa upādisesanibbāna) là Niết-bàn đối với bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận  được  tất  cả  mọi  tham-ái,  mọi  phiền-não không còn dư sót, còn gọi là kilesaparinibbāna: mọi phiền-não Niết-bàn, nhưng ngũ-uẩn vẫn còn tồn tại cho đến khi hết tuổi thọ.

2- Vô-dư Niết-bàn (anupādisesanibbāna) là Niết-bàn đối với bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được tất cả mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, đến lúc hết tuổi thọ, tịch diệt Niết- bàn, còn gọi là khandhaparinibbāna: ngũ-uẩn Niết-bàn nghĩa là ngũ-uẩn diệt rồi không còn ngũ-uẩn nào tái-sinh kiếp sau nữa, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Niết-bàn có 3 loại theo đối-tượng thiền-tuệ đó là:

1-Vô-hiện-tượng Niết-bàn (animittanibbāna) là Niết-bàn đối với hành-giả thực-hành pháp- hành thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam- giới, thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-thường (aniccalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái khổ và trạng-thái vô-ngã, do năng lực tín pháp-chủ có nhiều  năng  lực  hơn  4  pháp-chủ  còn  lại  (tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ), hoặc do năng lực của giới, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là vô-hiện-tượng Niết-bàn (animittanibbāna) Niết-bàn không có hiện- tượng các pháp hữu-vi.

2- Vô-ái Niết-bàn (appaṇihitanibbāna) là Niết-bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, thấy rõ, biết rõ trạng-thái khổ (dukkhalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái vô-thường và trạng-thái vô-ngã,  do  năng  lực  định  pháp-chủ  có  nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, tuệ pháp-chủ), hoặc do năng lực của định, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là vô-ái Niết-bàn (appaṇihita- nibbāna) Niết-bàn không có tham-ái nương nhờ.

3- Chân-không Niết-bàn (suññatanibbāna) là Niết-bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-ngã (anatta- lakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái khổ và trạng- thái  vô-thường, do  năng  lực tuệ pháp-chủ có nhiều  năng  lực  hơn  4  pháp-chủ  còn  lại  (tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp-chủ), hoặc do năng lực của tuệ, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là chân-không Niết-bàn (suññatanibbāna) Niết-bàn hoàn toàn vô-ngã, không phải ta, không phải của ta.

Những đối-tượng Niết-bàn ấy thuộc về diệt khổ-Thánh-đế là pháp nên chứng ngộ.

1.4- Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đó  là  bát-chánh-đạo  là  pháp-hành  dẫn  đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế.

Bát-chánh-đạo có 8 chánh:

1- Chánh-kiến (sammādiṭṭhi): Trí-tuệ chân- chính là trí-tuệ-thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.

2- Chánh-tư-duy (sammāsaṅkappa): Tư-duy chân-chính là:

– Tư-duy thoát ra khỏi ngũ-dục.

– Tư-duy không làm khổ mình khổ người.

– Tư-duy không làm hại mình hại người.

3- Chánh-ngữ (sammāvācā): Lời nói chân- chính là:

– Không nói dối, mà nói lời chân thật.

– Không nói lời chia rẽ, mà nói lời hoà hợp.

– Không nói lời thô tục, mà nói lời nhã nhặn.

– Không nói lời vô ích, mà nói lời hữu ích.

4- Chánh-nghiệp (sammākammanta): Nghề- nghiệp chân-chính là:

– Không sát-sinh.

– Không trộm-cắp.

– Không tà-dâm.

5- Chánh-mạng (sammā-ājīva): Nuôi mạng chân-chính là tránh xa cách sống tà-mạng do thân hành ác và khẩu hành ác.

6- Chánh-tinh-tấn (sammāvāyāma): Tinh-tấn chân-chính là:

– Tinh-tấn ngăn ác pháp chưa sinh, không phát sinh.

– Tinh-tấn diệt ác pháp đã phát sinh.

– Tinh-tấn làm cho thiện pháp chưa sinh, được phát sinh.

–  Tinh-tấn  làm  tăng  trưởng  thiện  pháp  đã phát sinh.

7- Chánh-niệm (sammāsati) là niệm chân- chính, có 4 pháp là pháp-hành tứ niệm-xứ:

– Thân niệm-xứ: Thân là đối-tượng của chánh- niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.

– Thọ niệm-xứ: Thọ là đối-tượng của chánh- niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.

– Tâm niệm-xứ: Tâm là đối-tượng của chánh- niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.

– Pháp niệm-xứ: Pháp là đối-tượng của chánh- niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.

8- Chánh-định (sammāsamādhi): Định chân- chính là định-tâm trong các bậc thiền siêu-tam- giới có Niết-bàn là đối-tượng.

Bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh chỉ đồng sinh trong 8 hoặc 40 tâm siêu-tam-giới có Niết-bàn làm đối-tượng mà thôi, bởi vì trong bát-chánh- đạo có 3 chánh: chánh-ngữ, chánh-nghiệp và chánh-mạng là 3 chế-ngự tâm-sở thuộc loại niyata-ekatocetasika: 3 tâm-sở cố định chỉ đồng sinh trong 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm có Niết- bàn làm đối-tượng mà thôi.

Thật ra, bát-chánh-đạo có 8 chánh đó là 8 tâm-sở:

– Chánh-kiến đó là trí-tuệ tâm-sở.

– Chánh-tư-duy đó là hướng-tâm tâm-sở.

– Chánh-ngữ đó là chánh-ngữ tâm-sở.

– Chánh-nghiệp đó là chánh-nghiệp tâm-sở.

– Chánh-mạng đó là chánh-mạng tâm-sở.

– Chánh-tinh-tấn đó là tinh-tấn tâm-sở.

– Chánh-niệm đó là niệm tâm-sở.

– Chánh-định đó là nhất-tâm tâm-sở.

* Tuy nhiên, trong siêu-tam-giới-tâm, 8 tâm-sở này có 3 chánh là chánh-ngữ tâm-sở, chánh-nghiệp tâm-sở, chánh-mạng tâm-sở là 3 chế-ngự tâm-sở thuộc loại niyata-ekatocetasika: 3 chế-ngự tâm- sở cố định chỉ đồng sinh trong 8 hoặc 40 siêu- tam-giới-tâm có Niết-bàn làm đối-tượng mà thôi.

* Trong tam-giới-tâm, chế-ngự tâm-sở có 3 chánh là chánh-ngữ tâm-sở, chánh-nghiệp tâm-sở, chánh-mạng tâm-sở thuộc về loại aniyata- yogīcetasika: bất-định tâm-sở còn thuộc loại nānākadāci mỗi chế-ngự tâm-sở sinh riêng rẽ và không nhất định trong 8 đại-thiện-tâm, bởi vì mỗi chế-ngự tâm-sở có mỗi đối-tượng khác nhau.

Bát-chánh-đạo tam-giới và siêu-tam-giới

Bát-chánh-đạo có 8 chánh mà mỗi chánh có nhiều loại như sau:

– Chánh-kiến (sammādiṭṭhi) là trí-tuệ chân- chính thấy đúng, biết đúng, có 5 loại:

1-   Kammassakatāsammādiṭṭhi:   Chánh-kiến sở-nghiệp  là trí-tuệ thấy đúng, biết đúng thiện- nghiệp và ác-nghiệp mà ta đã tạo rồi là của riêng ta, và ta là người thừa hưởng quả an-lạc  của thiện-nghiệp, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy.

2- Vipassanāsammādiṭṭhi: Chánh-kiến thiền-tuệ là trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới thấy rõ, biết rõ thật- tánh của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới.

3- Maggasammādiṭṭhi: Chánh-kiến Thánh- đạo-tuệ  là  trí-tuệ-thiền-tuệ  siêu-tam-giới  đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm có Niết-bàn là đối-tượng.

4- Phalasammādiṭṭhi: Chánh-kiến Thánh-quả- tuệ là trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới đồng sinh với 4 Thánh-quả-tâm có Niết-bàn là đối-tượng.

5-  Paccavekkhaṇasammādiṭṭhi:  Chánh-kiến quán-triệt là trí-tuệ quán-triệt Thánh-đạo, Thánh- quả, Niết-bàn, phiền-não nào đã diệt tận được rồi, phiền-não nào còn lại chưa diệt được.

Trong 5 loại chánh-kiến này, chánh-kiến sở- nghiệp, chánh-kiến thiền-tuệ, chánh-kiến quán- triệt thuộc về tam-giới.

Chánh-kiến Thánh-đạo-tuệ, chánh-kiến Thánh- quả-tuệ có Niết-bàn là đối-tượng thì thuộc về siêu-tam-giới.

* Thật ra, chánh-kiến đó là trí-tuệ tâm-sở (paññindriya-cetasika) đồng sinh với 4 đại-thiện- tâm hợp với trí-tuệ, 4 đại-duy-tác-tâm hợp với trí-tuệ, 5 sắc-giới thiện-tâm, 5 sắc-giới duy-tác- tâm, 4 vô-sắc-giới thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới duy- tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.

* Nếu khi trí-tuệ tâm-sở đồng sinh với tam- giới-tâm ấy thì chánh-kiến thuộc về tam-giới.

*  Nếu  khi  trí-tuệ  tâm-sở  đồng  sinh  với  4

Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh- kiến thuộc về siêu-tam-giới.

– Chánh-tư-duy (sammāsaṅkappa) là tư-duy chân-chính, có 3 loại:

1- Tư-duy thoát ra khỏi ngũ dục.

2- Tư-duy không làm khổ mình, khổ người.

3- Tư-duy không làm hại mình, hại người.

Thật ra, chánh-tư-duy đó là hướng-tâm tâm- sở (vitakkacetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện- tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ nhất thiền sắc-giới duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.

* Nếu khi hướng-tâm tâm-sở đồng sinh với tam- giới-tâm ấy thì chánh-tư-duy thuộc về tam-giới.

* Nếu khi hướng-tâm tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh- đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh- tư-duy thuộc về siêu-tam-giới.

– Chánh-ngữ (sammāvācā) là lời nói chân- chính, có 3 loại:

1- Kathā sammāvācā: Chánh-ngữ lời nói là nói hay, nói thật, nói lời chân-chính đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

2-  Cetanā sammāvācā:  Chánh-ngữ tác-ý  là tác-ý đại-thiện-tâm tránh xa 4 tà-ngữ:

– Tránh xa lời nói dối, mà nói lời chân thật.

– Tránh xa lời nói chia rẽ, mà nói lời hòa hợp.

– Tránh xa lời nói thô tục, mà nói lời nhã nhặn

– Tránh xa lời nói vô ích, mà nói lời hữu ích.

3- Virati sammāvācā: Chánh-ngữ chế-ngự là chế-ngự tâm-sở tránh xa tà-ngữ, khi đang thực- hành pháp-hành thiền-tuệ.

Trong 3 loại chánh-ngữ này, chánh-ngữ lời- nói, chánh-ngữ tác-ý thuộc về tam-giới. Chánh-ngữ chế-ngự tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo- tâm và 4 Thánh-quả-tâm có Niết-bàn là đối- tượng thuộc về siêu-tam-giới.

Thật ra, chánh-ngữ đó là chánh-ngữ tâm-sở (sammāvācācetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện- tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.

* Nếu khi chánh-ngữ tâm-sở đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm ấy thì chánh-ngữ thuộc về tam-giới.

* Nếu khi chánh-ngữ tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh- ngữ thuộc về siêu-tam-giới.

– Chánh-nghiệp (sammākammanta) là nghề nghiệp chân-chính, có 3 loại:

1- Kiriyā sammākammanta: Chánh-nghiệp hành-động là hành thiện-nghiệp đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

2- Cetanā sammākammanta: Chánh-nghiệp tác-ý là tác-ý thiện-tâm tránh xa 3 tà-nghiệp:

– Tránh xa sự sát-sinh.

– Tránh xa sự trộm-cắp.

– Tránh xa sự tà-dâm.

3- Virati   sammākammanta:   Chánh-nghiệp chế-ngự là chế-ngự tâm-sở tránh xa tà-nghiệp, khi đang thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.

Trong 3 loại chánh-nghiệp này, chánh-nghiệp hành-động, chánh-nghiệp tác-ý thuộc về tam-giới.

Chánh-nghiệp chế-ngự tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm có Niết-bàn là đối-tượng thuộc về siêu-tam-giới.

Thật ra, chánh-nghiệp đó là chánh-nghiệp tâm sở (sammākammantacetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh- quả-tâm.

* Nếu khi chánh-nghiệp tâm-sở đồng sinh với 8  đại-thiện-tâm  ấy  thì  chánh-nghiệp  thuộc  về tam-giới.

* Nếu khi chánh-nghiệp tâm-sở đồng sinh với 4   Thánh-đạo-tâm   và   4   Thánh-quả-tâm   thì chánh-nghiệp thuộc về siêu-tam-giới.

– Chánh-mạng (sammā-ājīva) là nuôi mạng chân-chính, có 2 loại:

1- Vīriyasammā-ājīva: Chánh-mạng tinh-tấn là tinh-tấn nuôi mạng chân-chính, từ bỏ cách sống tà-mạng do thân hành ác, do khẩu nói ác.

2- Viratisammā-ājīva: Chánh-mạng chế-ngự là chế-ngự tâm-sở tránh xa cách sống tà mạng, khi đang thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.

Trong 2 loại chánh-mạng này, chánh-mạng tinh-tấn thuộc về tam-giới.

Chánh-mạng chế-ngự tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm có Niết-bàn là đối-tượng thì thuộc về siêu-tam-giới.

Thật ra, chánh-mạng đó là chánh-mạng tâm-sở (sammā-ājīvacetasika) đồng sinh với 8 đại- thiện-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.

* Nếu khi chánh-mạng tâm-sở đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm ấy thì chánh-mạng thuộc về tam-giới.

* Nếu khi chánh-mạng tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh mạng thuộc về siêu-tam-giới.

– Chánh-tinh-tấn (sammāvāyāma) là tinh-tấn chân-chính, có 4 pháp:

1- Tinh-tấn ngăn ác pháp chưa sinh, không phát sinh.

2- Tinh-tấn diệt ác pháp đã phát sinh.

3- Tinh-tấn làm cho thiện pháp chưa sinh, được phát sinh.

4- Tinh-tấn làm cho tăng trưởng thiện pháp đã phát sinh.

Thật ra, chánh-tinh-tấn đó là tinh-tấn tâm-sở (vīriyacetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, 5 sắc-giới thiện-tâm, 5 sắc-giới duy-tác-tâm, 4 vô-sắc-giới thiện-tâm, 4 vô-sắc- giới duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh- quả-tâm.

* Nếu khi tinh-tấn tâm-sở đồng sinh với tam- giới-tâm ấy thì chánh-tinh-tấn thuộc về tam-giới.

* Nếu khi tinh-tấn tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh- tinh-tấn thuộc về siêu-tam-giới.

– Chánh-niệm (sammāsati) là niệm chân- chính có 4 pháp là pháp-hành tứ niệm-xứ:

1- Thân niệm-xứ: Thân là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.

2- Thọ niệm-xứ: Thọ là đối-tượng của chánh- niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.

3- Tâm niệm-xứ: Tâm là đối-tượng của chánh- niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.

4- Pháp niệm-xứ: Pháp là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.

Thật ra, chánh-niệm đó là niệm tâm-sở (sati- cetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại- duy-tác-tâm, 5 sắc-giới thiện-tâm, 5 sắc-giới duy- tác-tâm, 4 vô-sắc-giới thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới duy- tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.

* Nếu khi niệm tâm-sở đồng sinh với tam- giới-tâm ấy thì chánh-niệm thuộc về tam-giới.

* Nếu khi niệm tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh- đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-niệm thuộc về siêu-tam-giới.

– Chánh-định (sammāsamādhi) là định chân- chính trong 5 bậc thiền siêu-tam-giới có Niết- bàn là đối-tượng.

1- Đệ nhất thiền siêu-tam-giới có Niết-bàn là đối-tượng.

2- Đệ nhị thiền siêu-tam-giới có Niết-bàn là đối-tượng.

3- Đệ tam thiền siêu-tam-giới có Niết-bàn là đối-tượng.

4- Đệ tứ thiền siêu-tam-giới có Niết-bàn là đối-tượng.

5- Đệ ngũ thiền siêu-tam-giới có Niết-bàn là đối-tượng.

Thật ra, chánh-định đó là nhất-tâm tâm-sở (ekaggatā) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại- duy-tác-tâm, 5 sắc-giới thiện-tâm, 5 sắc-giới duy- tác-tâm, 4 vô-sắc-giới thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới duy- tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.

* Nếu khi nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với tam- giới-tâm ấy thì chánh-định thuộc về tam-giới.

* Nếu khi nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-định thuộc về siêu-tam-giới.

4 loại trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế thuộc về pháp-học Phật-giáo (pariyattisāsana).

2- 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-Đế

Sau khi hành-giả đã học phần pháp-học tứ Thánh-đế đó là 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế xong, hành-giả luân chuyển đến phần thực-hành phận sự trong tứ Thánh-đế đó là 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế.

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, cần phải biết trí-tuệ-hành phận sự trong mỗi Thánh- đế thấy rõ, biết rõ mỗi Thánh-đế có mỗi phận sự riêng biệt như sau:

2.1- Khổ-Thánh-đế đó là ngũ-uẩn chấp-thủ hoặc sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự nên biết sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới là khổ-đế bằng trí- tuệ-thiền-tuệ tam-giới (không phải phận sự nên diệt, nên chứng ngộ, nên tiến hành).

2.2- Nhân sinh khổ-Thánh-đế đó là 3 loại tham-ái, là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự nên diệt tham-ái từng thời (tadaṅgappahāna) bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (không phải phận sự nên biết, nên chứng ngộ, nên tiến hành).

2.3- Diệt khổ-Thánh-đế đó là Niết-bàn, là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự nên chứng ngộ Niết-bàn (1)  từng thời bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (không phải phận sự nên biết, nên diệt, nên tiến hành).

2.4- Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế là pháp-hành bát-chánh-đạo, là pháp mà trí-tuệ- hành có phận sự nên tiến hành pháp-hành bát- chánh-đạo bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (không phải phận sự nên biết, nên diệt, nên chứng ngộ).

Trong 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế này, trí-tuệ-hành có phận sự nên biết sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới là khổ-đế là chính, còn 3 trí-tuệ-hành phận sự của 3 Thánh-đế còn lại là phụ.

Thật ra, 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh- đế có sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới làm đối- tượng, phát sinh đồng thời không trước, không sau.

Nếu khi trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc- pháp, danh-pháp trong tam-giới nào là khổ-đế, là pháp nên biết bằng trí-tuệ-thiền-tuệ.

– Cũng đồng thời tham-ái, nhân sinh khổ-đế bị  diệt,  không  thể  nương  nhờ  nơi  sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới ấy để phát sinh.

– Cũng đồng thời chứng ngộ sự diệt tham-ái, nhân sinh khổ-đế nơi sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới ấy.

– Cũng đồng thời đang tiến hành pháp-hành chánh-đạo có chánh-niệm, chánh-kiến, chánh- tinh-tấn, có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc- pháp, danh-pháp tam-giới ấy là khổ-đế là pháp nên biết, tham-ái là nhân sinh khổ-đế là pháp nên diệt, Niết-bàn là pháp nên chứng ngộ, chính pháp-hành chánh-đạo là pháp nên tiến hành.

Như vậy, 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ đế phát sinh đồng thời không trước, không sau.

4 loại trí-tuệ-hành phận sự trong tứ đế thuộc về pháp-hành Phật-giáo (paṭipattisāsana).

3- 4 Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế

Khi hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thực-hành 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ đế đến khi hoàn thành mọi phận sự trong tứ đế, thì tự động được luân chuyển đến 4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế.

Vì vậy, 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ đế đến khi hoàn thành mọi phận sự bằng trí-tuệ- thiền-tuệ tam-giới thì tự động được luân chuyển đến 4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế bằng  trí-tuệ-thiền-tuệ  siêu-tam-giới, đó là chứng đắc 4 Thánh-đạo-tuệ có đối-tượng Niết-bàn  siêu-tam-giới  (không  còn  đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới nữa).

Khi ấy, khổ-Thánh-đế đó là ngũ-uẩn chấp- thủ, là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự nên biết bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới, thì trí-tuệ-thành đã  biết  xong  bằng  trí-tuệ-thiền-tuệ  siêu-tam- giới đó là 4 Thánh-đạo-tuệ.

– Cũng đồng thời nhân sinh khổ-Thánh-đế đó là tham-ái, là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự nên diệt từng thời bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam- giới,  thì  trí-tuệ-thành  đã  diệt  tận  được  mọi tham-ái xong bằng trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam- giới đó là 4 Thánh-đạo-tuệ.

– Cũng đồng thời diệt khổ-Thánh-đế, đó là Niết-bàn, là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự nên chứng ngộ bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới, thì trí-tuệ-thành đã chứng ngộ xong bằng trí-tuệ thiền-tuệ siêu-tam-giới đó là 4 Thánh-đạo-tuệ.

– Cũng đồng thời pháp-hành dẫn đến diệt khổ- Thánh-đế đó là pháp-hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh- ngữ,  chánh-nghiệp,  chánh-mạng,  chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự nên tiến hành bằng trí-tuệ- thiền-tuệ tam-giới, thì trí-tuệ-thành đã tiến-hành xong bằng trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới đó là 4 Thánh-đạo-tuệ:

– Khổ-Thánh-đế là pháp nên biết, thì đã biết xong.

– Nhân sinh khổ-Thánh-đế là pháp nên diệt, thì đã diệt tận được mọi tham-ái xong.

– Diệt khổ-Thánh-đế là pháp nên chứng ngộ, thì đã chứng ngộ Niết-bàn xong.

– Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế là pháp nên tiến-hành, thì đã tiến-hành xong.

4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự của tứ Thánh-đế đã hoàn thành xong 4 phận sự trong tứ  Thánh-đế  đồng  thời  cùng  một  lúc  không trước, không sau.

Trong 4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế thì trí-tuệ-thành pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đã hoàn thành xong phận sự tiến-hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh là chính yếu, 3 trí-tuệ-thành còn lại là phụ cũng hoàn thành xong phận sự trong mỗi Thánh-đế, cùng một lúc không trước không sau với trí-tuệ- thành pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế.

4 loại trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự của tứ Thánh-đế đã hoàn thành xong mọi phận sự tứ Thánh-đế, thuộc về pháp-thành Phật-giáo (paṭi- vedhasāsana), đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn gọi là navalokuttaradhamma: 9 pháp siêu-tam-giới.

Cho nên, bài kinh Dhammacakkappavattana-sutta là một bài kinh đặc biệt gồm có đầy đủ 3 loại Phật-giáo: pháp-học Phật-giáo, pháp-hành Phật-giáo, pháp-thành Phật-giáo đó là trí-tuệ- học trong tứ Thánh-đế thuộc về pháp-học Phật- giáo được luân chuyển đến trí-tuệ-hành phận sự của tứ Thánh-đế thuộc về pháp-hành Phật- giáo được luân chuyển đến trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự của tứ Thánh-đế thuộc về pháp- thành Phật-giáo.

Cho  nên,  tam-tuệ-luân  trong  tứ  Thánh-đế gồm có 3×4=12 loại trí-tuệ trong tứ Thánh-đế cũng gọi là dhammacakka bánh xe chuyển- pháp-luân gồm có 12 căm.

Quan hệ nhân quả của tam-tuệ-luân

* Từ quả đến nhân, từ nhân đến quả

4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế  chứng  ngộ  chân-lý  tứ  Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn đó là quả đã hoàn thành xong 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế.

4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế đã thực-hành đúng theo mỗi phận sự của mỗi Thánh- đế đó là quả của 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế đã hiểu biết rõ mỗi chi pháp của mỗi Thánh-đế.

Như  vậy,  4  trí-tuệ-học  trong  tứ  Thánh-đế hiểu biết rõ đúng các chi pháp của mỗi Thánh-đế làm nền tảng cơ bản, làm nhân phát sinh quả 4 trí-tuệ-hành  phận  sự  trong  tứ Thánh-đế  đúng theo mỗi phận sự của mỗi Thánh-đế.

4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế đã hoàn thành là nhân phát sinh quả là 4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc từ Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu  Thánh-quả  và Niết-bàn; Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết- bàn; Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn; A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh- quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

Trí-tuệ quán triệt thấy rõ, biết rõ phạm-hạnh đã  hoàn  thành  xong,  kiếp  này  là  kiếp  chót, không còn phải tái-sinh kiếp nào khác nữa, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Như  trong  đoạn  kinh  Chuyển-pháp-luân, Đức-Thế-Tôn khẳng định:

“Ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi, akuppā me vimutti, ayam’antimājāti, natthi dāni punabbhavo.

Trí-tuệ quán triệt đã phát sinh đến Như-Lai, biết  rõ  rằng:  “A-ra-hán  Thánh-quả-tuệ  giải thoát của Như-Lai không bao giờ bị hư hoại, kiếp này là kiếp chót, sau kiếp hiện-tại này, không còn phải tái-sinh kiếp nào nữa.”

Bảng Tóm Tắt Tam-Tuệ-Luân Trong Tứ Thánh-Đế

Tam tuệ-luân Tứ Thánh-đế
Khổ thánh-đế Nhân sinh khổ-Thánh-đế diệt khổ-Thánh-đế Pháp-hành diệt khổ- Thánh-đế
trí-tuệ-học sắc-pháp

danh pháp

tham-ái Niết-bàn bát chánh đạo 
trí-tuệ-hành nên biết nên diệt nên chứng ngộ nên tiến hành
trí-tuệ-thành đã biết đã diệt đã chứng ngộ đã tiến hành
Tứ Thánh-đế Tam-Tuệ-Luân
trí-tuệ-học trí-tuệ-hành trí-tuệ-thành
khổ- Thánh-đế sắc-pháp 

danh-pháp 

nên biết đã biết
Nhân sinh  khổ-Thánh-đế  tham-ái nên diệt đã diệt 
diệt khổ-Thánh-đế  Niết-bàn nên chứng ngộ  đã chứng ngộ 
pháp-hành diệt khổ-Thánh-đế  bát chánh đạo 

 

nên tiến hành đã tiến hành 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tam-tuệ-luân của 4 bậc Thánh-nhân

Mỗi  bậc  Thánh-nhân  đều  trải  qua  tam-tuệ- luân trong tứ Thánh-đế, mỗi tuệ-luân có năng lực trí-tuệ khác nhau đối với mỗi bậc Thánh-nhân.

– Bậc Thánh Nhập-lưu trải qua tam-tuệ-luân trong   tứ   Thánh-đế   lần   thứ   nhất,   Nhập-lưu Thánh-đạo-tuệ diệt tận được 2 loại tham-ái là vibhavataṇhā: tham-ái hợp với đoạn-kiến và bhavataṇhā: tham-ái hợp với thường-kiến trong 4 tham-tâm hợp tà-kiến (còn 4 tham-tâm không hợp tà-kiến thì chưa diệt được).

– Bậc Thánh Nhất-lai trải qua tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế lần thứ nhì, Nhất-lai Thánh- đạo-tuệ đã diệt tận được 1 loại tham-ái là kāma- taṇhā: tham-ái trong 5 đối-tượng ái loại thô cõi dục-giới  trong 4 tham-tâm không  hợp  tà-kiến (còn 5 đối-tượng ái loại vi-tế, thì chưa diệt được).

– Bậc Thánh Bất-lai trải qua tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế lần thứ ba, Bất-lai Thánh-đạo- tuệ đã diệt tận được 1 loại tham-ái là kāmataṇhā: tham-ái trong 5 đối-tượng ái loại vi-tế cõi dục- giới trong 4 tham-tâm không hợp tà-kiến (còn tham- ái trong các bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, vô-sắc- giới  thiện-tâm, trong cõi sắc-giới  phạm-thiên, cõi vô-sắc-giới phạm-thiên thì chưa diệt được).

– Bậc Thánh A-ra-hán trải qua tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế lần thứ tư, A-ra-hán Thánh-đạo-tuệ đã diệt tận được bhavataṇhā: tham-ái trong các bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, vô-sắc- giới  thiện-tâm, trong cõi sắc-giới  phạm-thiên, cõi vô-sắc-giới phạm-thiên trong 4 tham-tâm không hợp tà-kiến không còn dư sót.

Như  vậy,  bậc  Thánh  A-ra-hán  đã  diệt  tận được hoàn toàn mọi tham-ái không còn dư sót.

Tính chất 4 phận sự trong tứ Thánh-đế 

4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế và 4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế có tính chất liên quan đồng thời, không phận sự nào trước, không phận sự nào sau.

Bộ Visuddhimagga: Thanh-tịnh-đạo có ví dụ: Khi đốt một cây đèn dầu trong đêm tối có 4 sự việc xảy ra đồng thời, không trước, không sau:

– Ánh sáng tỏa ra.

– Bóng tối bị biến mất.

– Tim đèn bị cháy mòn.

– Dầu bị hao dần.

Cũng giống như trường-hợp 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế và 4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế có tính chất đồng thời, không trước, không sau.

Trong kinh Gavampatisutta có đoạn Ngài

Trưởng-lão Gavampati thưa với chư tỳ-khưu rằng

– Này chư pháp hữu! Tôi được nghe từ nơi Đức-Thế-Tôn dạy rằng:

* Vị tỳ-khưu nào chứng ngộ khổ-Thánh-đế, thì vị tỳ-khưu ấy cũng chứng ngộ nhân sinh khổ- Thánh-đế,  diệt  khổ-Thánh-đế,  pháp-hành  dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế.

* Vị tỳ-khưu nào chứng ngộ nhân sinh khổ- Thánh-đế, thì vị tỳ-khưu ấy cũng chứng ngộ khổ- Thánh-đế,  diệt  khổ-Thánh-đế,  pháp-hành  dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế.

* Vị tỳ-khưu nào chứng ngộ diệt khổ-Thánh- đế, thì vị tỳ-khưu ấy cũng chứng ngộ khổ-Thánh- đế, nhân sinh khổ-Thánh-đế, pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế.

* Vị tỳ-khưu nào chứng ngộ pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế, thì vị tỳ-khưu ấy cũng chứng ngộ khổ-Thánh-đế, nhân sinh khổ-Thánh- đế, diệt khổ-Thánh-đế.

Như vậy, tứ Thánh-đế có sự liên quan về phận sự với nhau đồng thời không trước không sau.

Phần giải thích

4 Trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế

Trong 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh- đế, hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí- tuệ-hành phận sự trong khổ-đế là chính, còn 3 trí-tuệ-hành phận sự trong 3 đế còn lại cũng được thành tựu đồng thời không trước, không sau.

Thật vậy, khi hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ khi phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp nào, hoặc danh-pháp tam-giới nào là khổ-đế thì đồng thời tham-ái, nhân sinh khổ-đế không sinh trong sắc-pháp ấy, hoặc trong danh-pháp tam-giới ấy, đồng thời chứng ngộ sự diệt của tham-ái, nhân sinh khổ-đế nơi sắc-pháp ấy, hoặc nơi danh-pháp tam-giới ấy.

Trong khi đang thực-hành pháp-hành thiền- tuệ có chánh-niệm, chánh-kiến, chánh-tinh-tấn, … khi phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ khổ-đế là pháp nên biết, nhân sinh khổ-đế là pháp nên diệt, diệt khổ-đế là pháp nên chứng ngộ, thì chính pháp-hành dẫn đến diệt khổ-đế là pháp nên tiến-hành.

Như vậy, 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ-đế đồng thời không trước không sau, đều có đối- tượng sắc-pháp, danh-pháp tam-giới.

4 Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự tứ Thánh-đế

Trong 4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế, hành-giả thực-hành pháp- hành thiền-tuệ, có trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh- đế có đối-tượng Niết-bàn là chính, còn 3 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong 3 Thánh-đế còn lại cũng được hoàn thành xong phận sự trong 3 Thánh-đế đồng thời không trước không sau.

Thật vậy, khi hành-giả có trí-tuệ-thiền-tuệ siêu- tam-giới đó là 4 Thánh-đạo-tuệ đã hoàn thành xong phận sự tiến-hành pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế thì:

– Đồng thời 4 Thánh-đạo-tuệ cũng đã hoàn thành xong phận sự biết khổ-Thánh-đế.

– Đồng thời 4 Thánh-đạo-tuệ cũng đã hoàn thành xong phận sự diệt tận được mọi tham-ái, nhân sinh khổ-Thánh-đế.

– Đồng thời 4 Thánh-đạo-tuệ và 4 Thánh-quả- tuệ đã hoàn thành xong phận-sự chứng ngộ Niết- bàn, diệt khổ-Thánh-đế.

– Đồng thời pháp-hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định đó là 8 tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm, đã hoàn thành xong phận sự đã tiến-hành pháp-hành dẫn đến diệt khổ- Thánh-đế đó là:

–  Khổ-Thánh-đế  đó  là  ngũ-uẩn  chấp-thủ  là pháp nên biết, thì đã biết xong.

– Nhân sinh khổ-Thánh-đế đó là tham-ái là pháp nên diệt, thì đã diệt tận được xong.

– Diệt khổ-Thánh-đế đó là Niết-bàn là pháp nên chứng ngộ, thì đã chứng ngộ xong.

–  Pháp-hành  bát-chánh-đạo  dẫn  đến  diệt khổ-Thánh-đế là pháp nên tiến hành, thì đã tiến hành xong.

4 trí-tuệ-thành đã hoàn thành xong 4 phận sự trong tứ Thánh-đế đồng thời không trước không sau.

Vai trò 4 trí-tuệ-hành và 4 trí-tuệ-thành

* Trong 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ-đế ở giai đoạn đầu, trí-tuệ-hành phận sự biết khổ-đế đóng vai trò chính yếu, đó là trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp tam-giới là khổ đế, là pháp nên biết, còn trí-tuệ-hành phận sự của mỗi đế còn lại, cũng được thành tựu phận sự đồng thời không trước không sau.

* Trong 4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong  tứ  Thánh-đế  ở  giai  đoạn  cuối,  trí-tuệ- thành hoàn thành phận sự đã tiến-hành pháp- hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đóng vai trò chính yếu, đó là Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh đó là 8 tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam- giới, là hoàn thành xong phận sự đã tiến-hành pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế, đã chứng ngộ  chân-lý  tứ  Thánh-đế,  đã  chứng  đắc  4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, thì trí-tuệ- thành hoàn thành phận sự trong 3 Thánh-đế còn lại cũng được thành tựu mỗi phận sự của mỗi Thánh-đế đồng thời không trước không sau.

Tứ Thánh-đế trong giáo-pháp của Đức-Phật

Tứ Thánh-đế là chân-lý của chư bậc Thánh- nhân đã chứng ngộ, tứ Thánh-đế là nền tảng căn bản, là pháp cốt lõi trọng yếu trong giáo-pháp của chư Phật quá-khứ, của Đức-Phật hiện-tại và của chư Phật vị-lai.

Tứ Thánh-đế đó là:

1-  Khổ-Thánh-đế  đó  là  ngũ-uẩn  chấp-thủ, hay sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới.

Trong  giáo-pháp  của  Đức-Phật,  tất  cả  mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp trong tam-giới (cõi dục-giới,  cõi  sắc-giới,  cõi  vô-sắc-giới)  đúng theo sự-thật chân-lý chỉ là khổ-đế (dukkhasacca) mà thôi, không có lạc đế.

Tuy có thọ-lạc (sukhavedanā) nhưng thọ-lạc gọi là vipariṇāmadukkha: biến-chất-khổ, bởi vì thọ-lạc cũng sinh rồi diệt là vô-thường nên cũng chỉ là khổ-đế mà thôi.

Trong tam-giới, tất cả các pháp hữu-vi: sắc- pháp, danh-pháp trong tam-giới đều sinh rồi diệt nên có 4 trạng-thái là trạng-thái vô-thường, trạng- thái khổ, trạng-thái vô-ngã, trạng-thái bất-tịnh.

Vậy, do nguyên-nhân nào cho là lạc trong đời này?

Thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh- pháp trong tam-giới đều có 4 trạng-thái: trạng- thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô- ngã, trạng-thái bất-tịnh, nhưng do 3 pháp-điên- đảo (vipallāsa) là tâm-điên-đảo, tưởng-điên-đảo, tà-kiến-điên-đảo cho là thường, lạc, ngã, tịnh.

Pháp-điên-đảo (vipallāsa) có 3 loại:

– Cittavipallāsa: Tâm-điên-đảo là tâm biết sai, chấp lầm trong các sắc-pháp, các danh-pháp trong tam-giới cho là thường, lạc, ngã, tịnh.

– Saññāvipallāsa: Tưởng-điên-đảo là tưởng sai, chấp lầm trong các sắc-pháp, các danh-pháp trong tam-giới cho là thường, lạc, ngã, tịnh.

– Diṭṭhivipallāsa: Tà-kiến-điên-đảo là tà-kiến thấy sai, chấp lầm trong các sắc-pháp, các danh- pháp trong tam-giới cho là thường, lạc, ngã, tịnh.

* Thật-tánh của các sắc-pháp, các danh-pháp trong tam-giới đều có trạng-thái vô-thường, nhưng do tâm-điên-đảo, tưởng-điên-đảo, tà-kiến- điên-đảo cho là thường.

* Thật-tánh của các sắc-pháp, các danh-pháp trong tam-giới đều có trạng-thái khổ, nhưng do tâm-điên-đảo, tưởng-điên-đảo, tà-kiến-điên-đảo cho là lạc.

* Thật-tánh của các sắc-pháp, các danh-pháp trong tam-giới đều có trạng-thái vô-ngã, nhưng do tâm-điên-đảo, tưởng-điên-đảo, tà-kiến-điên- đảo cho là ngã.

* Thật-tánh của các sắc-pháp, các danh-pháp trong tam-giới đều có trạng-thái bất-tịnh, nhưng do tâm-điên-đảo, tưởng-điên-đảo, tà-kiến-điên- đảo cho là tịnh.

Như vậy, pháp-điên-đảo có 3 x 4 trạng-thái gồm có 12 pháp-điên-đảo.

Sự thật chân-lý của các sắc-pháp, các danh- pháp  trong  tam-giới  chỉ  là  khổ-đế  mà  thôi, nhưng do tâm-điên-đảo, tưởng-điên-đảo, tà-kiến điên-đảo đảo ngược lại thật-tánh cho là lạc.

Vậy, lạc không phải là sự thật chân-lý, mà thuộc về lạc-điên-đảo (sukhavipallāsa).

Như Đại-đức tỳ-khưu-ni Vajirā dạy rằng:

“Chỉ có khổ-đế sinh, khổ-đế trụ, khổ-đế diệt, ngoài khổ-đế ra, không có gì sinh, không có gì trụ, không có gì diệt…” 

Cho nên, ngũ-uẩn chấp-thủ, hay sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới đều chỉ là khổ-đế mà thôi, không phải là lạc thật sự, mà chỉ là lạc- điên-đảo (sukhavipallāsa) mà thôi.

Cho nên, người nào tìm lạc thú trong đời, người ấy chắc chắn sẽ bị thất vọng mà thôi.

2- Nhân sinh khổ-Thánh-đế đó là tham-ái

* Tham-ái là nhân sinh khổ trong kiếp hiện-tại

– Nếu người nào phát sinh tham-tâm trong đối-tượng nào mà không được thỏa mãn như ý thì người ấy phát sinh sân-tâm không vừa lòng, làm cho khổ tâm.

– Nếu người nào phát sinh tham-tâm trong đối-tượng  nào  mà  được  thỏa  mãn  như  ý  thì người ấy phát sinh tham-tâm chấp-thủ cho là của ta, cũng làm nhân phát sinh tâm sầu não, lo sợ cũng làm cho khổ tâm.

Như Đức-Phật dạy trong pháp-cú kệ rằng:

Taṇhāya jāyatī soko, taṇhāya jāyatī bhayaṃ. 

Taṇhāya vippamuttassa,  

natthi soko kuto bhayaṃ?  

 

Sự sầu não phát sinh do tham-ái, 

Sự lo sợ phát sinh do tham-ái. 

Bậc Thánh A-ra-hán diệt tận tham-ái, 

Không sầu não, từ đâu có lo sợ? 

Thật ra, trong kiếp hiện-tại, nếu người nào phát sinh tham-tâm trong đối-tượng nào không được thỏa mãn như ý thì người ấy phát sinh sân- tâm không vừa lòng, chỉ làm cho khổ tâm trong khoảng thời gian ngắn, rồi cũng lảng quên theo thời gian mà thôi.

 Còn nếu người nào phát sinh tham-tâm trong đối-tượng  nào  mà  được  thỏa  mãn  như  ý  thì người ấy phát sinh tham-tâm chấp-thủ cho là của ta, nên làm nhân phát sinh khổ tâm trong suốt khoảng thời gian dài vì đối-tượng ấy.

* Tham-ái là nhân sinh khổ trong kiếp-sau

Bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được tất cả mọi tham-ái không còn dư sót, đến khi hết tuổi thọ, đồng thời tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Chúng-sinh có ngũ-uẩn: sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn,  hành-uẩn,  thức-uẩn  trong  11  cõi dục-giới và trong 15 tầng trời sắc-giới phạm- thiên, hoặc chúng-sinh có tứ-uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn,  hành-uẩn,  thức-uẩn)  trong  4  tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên cũng chỉ có khổ-đế mà thôi, thậm chí chư phạm-thiên chỉ có nhất- uẩn (sắc-uẩn), trong tầng trời sắc-giới phạm- thiên  Vô-tưởng-thiên,  kiếp  hiện-tại  không  có khổ, bởi vì chỉ có thân mà không có tâm, nhưng kiếp vị-lai cũng không thoát khỏi khổ-đế.

Tất cả mọi chúng-sinh còn là hạng phàm- nhân trong tam-giới gồm có 31 cõi-giới, đều có khổ-đế, mỗi chúng-sinh có khổ-đế khác nhau là khổ nhiều hoặc khổ ít mà thôi.

Chư bậc Thánh-nhân sống trong đời đều có khổ  thân  vì  tứ-đại  bất  hoà,  còn  khổ  tâm  do phiền-não bị giảm dần cho đến hết theo năng lực của mỗi bậc Thánh-nhân như sau:

* Bậc Thánh Nhập-lưu đã diệt tận được 2 loại  phiền-não  là  tà-kiến  (diṭṭhi) và  hoài-nghi (vicikicchā) không còn dư sót, trong kiếp hiện- tại, bậc Thánh Nhập-lưu không còn khổ vì 2 loại phiền-não ấy nữa.

Kiếp vị-lai bậc Thánh Nhập-lưu vĩnh viễn không còn khổ tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác- giới nữa, mà chỉ còn khổ tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện dục-giới nhiều nhất 7 kiếp nữa mà thôi.

Đến kiếp thứ 7, bậc Thánh Nhập-lưu ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

* Bậc Thánh Nhất-lai đã diệt tận được 1 loại phiền-não là sân (dosa) loại thô không còn dư sót, trong kiếp hiện-tại, bậc Thánh Nhất-lai không còn khổ vì phiền-não sân loại thô ấy nữa.

Kiếp vị-lai bậc Thánh Nhất-lai chỉ còn khổ tái-sinh kiếp sau 1 kiếp nữa mà thôi. Trong kiếp ấy, bậc Thánh Nhất-lai ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

* Bậc Thánh Bất-lai đã diệt tận được 1 loại phiền-não là sân loại vi-tế và diệt tận được tham-ái trong cõi dục-giới không còn dư sót, trong kiếp hiện-tại, bậc Thánh Bất-lai không còn khổ vì phiền-não sân và tham-ái trong cõi dục-giới nữa.

Kiếp vị-lai bậc Thánh Bất-lai không còn tái- sinh kiếp sau trở lại cõi dục-giới, mà chỉ còn tái- sinh  kiếp  kế-tiếp  hoá-sinh  làm  vị  phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên mà thôi. Vị phạm-thiên chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A- ra-hán, sẽ tịch diệt Niết-bàn tại tầng trời sắc- giới phạm-thiên, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

* Bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được 7 loại phiền-não còn lại là tham (lobha), si (moha), ngã-mạn (māna), buồn-chán (thīna), phóng-tâm (uddhacca), không biết hổ-thẹn tội-lỗi (ahirika), không biết ghê-sợ tội-lỗi (anottappa) không còn dư sót, trong kiếp hiện-tại, bậc Thánh A-ra-hán hoàn toàn không có khổ-tâm vì phiền-não nữa, chỉ còn khổ thân mà thôi.

Đến  khi  bậc  Thánh  A-ra-hán  hết  tuổi  thọ, đồng thời tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Vì vậy, tham-ái là nhân sinh khổ-Thánh-đế.

3-  Diệt  khổ-Thánh-đế  đó  là  Niết-bàn,  là pháp diệt tận được tham-ái, nhân sinh khổ- Thánh-đế.

Niết-bàn có 2 loại đó là:

1- Hữu-dư Niết-bàn (sa upādisesanibbāna)

là Niết-bàn đối với bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận  được  tất  cả  mọi  tham-ái,  mọi  phiền-não không còn dư sót, còn gọi là kilesaparinibbāna: mọi phiền-não Niết-bàn, nhưng ngũ-uẩn vẫn còn tồn tại cho đến khi hết tuổi thọ.

2- Vô-dư Niết-bàn (anupādisesanibbāna) là Niết-bàn đối với bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được tất cả mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, đến lúc hết tuổi thọ, tịch diệt Niết- bàn, còn gọi là khandhaparinibbāna: ngũ-uẩn Niết-bàn nghĩa là ngũ-uẩn diệt rồi không còn ngũ-uẩn nào tái-sinh kiếp sau nữa, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Niết-bàn có 3 loại theo đối-tượng thiền-tuệ là:

1-Vô-hiện-tượng Niết-bàn (animittanibbāna) là Niết-bàn đối với hành-giả thực-hành  pháp- hành thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam- giới, thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-thường (aniccalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái khổ và trạng-thái vô-ngã, do năng lực tín pháp-chủ có nhiều  năng  lực  hơn  4  pháp-chủ  còn  lại  (tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ), hoặc do năng lực của giới, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là vô-hiện-tượng Niết-bàn (animittanibbāna) Niết-bàn không có hiện- tượng các pháp hữu-vi.

2-  Vô-ái  Niết-bàn  (appaṇihitanibbāna)  là Niết-bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, thấy rõ, biết rõ trạng-thái khổ (dukkhalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái vô-thường và trạng-thái vô-ngã, do năng lực định pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, tuệ pháp-chủ), hoặc do năng lực của định, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là vô-ái Niết-bàn (appaṇihita- nibbāna) Niết-bàn không có tham-ái nương nhờ.

3- Chân-không Niết-bàn (suññatanibbāna) là Niết-bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-ngã (anatta- lakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái khổ và trạng- thái vô-thường, do năng lực tuệ pháp-chủ có nhiều  năng  lực  hơn  4  pháp-chủ  còn  lại  (tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp-chủ), hoặc do năng lực của tuệ, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là chân-không Niết-bàn (suññatanibbāna) Niết-bàn hoàn toàn vô-ngã, không phải ta, không phải của ta.

Vì vậy, Niết-bàn là pháp diệt khổ-Thánh-đế.

4- Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đó là pháp-hành bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế.

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam- giới. Khi ấy, 4 Thánh-đạo-tâm hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh- nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh- niệm, chánh-định đó là 8 tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm đã hoàn thành xong 4 phận sự:

–  Khổ-Thánh-đế đó  là ngũ-uẩn chấp-thủ là pháp nên biết, thì 4 Thánh-đạo-tuệ đã biết ngũ- uẩn chấp-thủ xong.

– Nhân sinh khổ-Thánh-đế đó là tham-ái là pháp nên diệt, thì 4 Thánh-đạo-tuệ đã diệt tận mọi tham-ái xong không còn dư sót.

– Diệt khổ-Thánh-đế đó là Niết-bàn là pháp nên chứng ngộ, thì 4 Thánh-đạo-tuệ đã chứng ngộ Niết-bàn xong.

– Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đó là pháp-hành bát-chánh-đạo là pháp nên tiến hành, thì 4 Thánh-đạo-tuệ đã tiến hành pháp-hành bát- chánh-đạo hợp đủ 8 chánh xong.

Vì vậy, pháp-hành bát-chánh-đạo là pháp- hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ- Thánh-đế.

Tứ Thánh-đế là nền tảng, là cốt lõi chính yếu trong giáo-pháp của chư Phật. Cho nên, hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ ban đầu dù có những đối-tượng thiền-tuệ như thân, hoặc thọ, hoặc tâm, hoặc pháp, hoặc sắc-pháp, hoặc danh- pháp tam-giới khác nhau, nhưng đến giai đoạn cuối cùng cũng đều đạt đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, mới chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn.

Nhân quả liên quan của tứ Thánh-đế

Chân-lý tứ Thánh-đế có nhân quả liên quan với nhau như sau:

–  Khổ-Thánh-đế  đó  là  ngũ-uẩn  chấp-thủ, hay sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới là quả của nhân sinh khổ-Thánh-đế.

– Nhân sinh khổ-Thánh-đế đó là tham-ái là nhân dẫn dắt tái-sinh kiếp sau (taṇhā ponob- bhavikā).

– Diệt khổ-Thánh-đế đó là Niết-bàn không thuộc về quả của một nhân nào, bởi vì Niết- bàn là pháp vô-vi (asaṅkhatadhamma) là pháp hoàn toàn không do một nhân duyên nào cấu tạo, Niết-bàn là đối-tượng siêu-tam-giới của 4 Thánh- đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm.

– Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đó là pháp-hành bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế.

Như vậy, pháp-hành bát-chánh-đạo là nhân đạt  đến  Niết-bàn  (diệt  khổ-Thánh-đế),  không phải là nhân sinh Niết-bàn, và diệt khổ-Thánh- đế (Niết-bàn), cũng không phải là quả của pháp- hành bát-chánh-đạo dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế, mà chỉ là đối-tượng siêu-tam-giới của pháp- hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh (chánh- kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh- định) đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm) dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế mà thôi.

Ví dụ nôm na: con đường dẫn đến kinh-đô.

– Con đường ví như pháp-hành bát-chánh- đạo là pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế (Niết-bàn).

– Kinh-đô ví như Niết-bàn là pháp diệt khổ- Thánh-đế.

Con đường dẫn đến kinh-đô, chứ không phải là nhân sinh kinh-đô.

Cũng  như  vậy,  pháp-hành  bát-chánh-đạo dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế (Niết-bàn) không phải nhân sinh Niết-bàn (diệt khổ-Thánh-đế), mà chỉ là nhân đạt đến Niết-bàn, diệt khổ- Thánh-đế mà thôi.

Pháp-Hành Trung-Đạo (Majjhimāpaṭipadā)

Pháp-hành trung-đạo (majjhimāpaṭipadā) là pháp-hành chỉ có trong Phật-giáo mà thôi, hoàn toàn không có ngoài Phật-giáo.

Trong Kinh Dhammacakkappavattanasutta: (1) Kinh Chuyển-pháp-luân mà Đức-Phật thuyết giảng lần đầu tiên, để tế độ nhóm 5 tỳ-khưu: Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña, Ngài Trưởng- lão Vappa, Ngài Trưởng-lão Bhaddiya, Ngài Trưởng-lão Mahānāma, Ngài Trưởng-lão Assaji tại khu rừng phóng sinh nai gọi Isipatana, gần kinh-thành Bāraṇasī.

Đức-Phật thuyết giảng pháp-hành trung-đạo rằng:

– Này chư tỳ-khưu! Pháp-hành trung-đạo là Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng là chánh- kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh- mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định.

Tuy nhiên 8 chánh này gọi là pháp-hành bát- chánh-đạo có chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh- ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định, đó là 8 tâm-sở (cetasika) đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả- tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới:

Thật ra, trong 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm có 36 tâm-sở đồng sinh, trong 36 tâm-sở ấy có 8 tâm-sở gọi là 8 chánh như sau:

1- Trí-tuệ tâm-sở gọi là chánh-kiến.

2- Hướng-tâm tâm-sở gọi là chánh-tư-duy.

3- Chánh-ngữ tâm-sở gọi là chánh-ngữ.

4- Chánh-nghiệp tâm-sở gọi là chánh-nghiệp.

5- Chánh-mạng tâm-sở gọi là chánh-mạng.

6- Tinh-tấn tâm-sở gọi là chánh-tinh-tấn.

7- Niệm tâm-sở gọi là chánh-niệm.

8- Nhất-tâm tâm-sở gọi là chánh-định.

8 tâm-sở này cùng với 28 tâm-sở khác đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm cùng có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.

Cho nên, pháp-hành trung-đạo đó là pháp- hành-bát chánh-đạo hợp đủ 8 chánh trong 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.

Như vậy, pháp-hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh này không phải là pháp-hành bắt đầu thực-hành, cũng không phải là pháp-hành đang thực-hành, mà sự thật là pháp-hành đã thực- hành xong rồi, đã hoàn thành xong mọi phận sự tứ  Thánh-đế,  nên  pháp-hành  bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh này gọi là pháp-thành Phật- giáo (paṭivedhasāsana) là kết quả của pháp-hành Phật-giáo (paṭipattisāsana).

Cho nên, pháp-hành trung-đạo này là pháp- hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh ấy ở giai đoạn cuối.

Bắt đầu thực-hành pháp-hành bát-chánh-đạo

* Giai đoạn đầu thực-hành pháp-hành bát- chánh-đạo, hành-giả cần phải bắt đầu thực-hành chánh-niệm: niệm-thân, niệm-thọ, niệm-tâm, niệm- pháp, đó là thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ.

Thật  vậy,  trong  kinh  Rahogatasutta Ngài Trưởng-lão Anuruddha từng tư duy rằng:

“Hành-giả nào chán nản thực-hành pháp- hành tứ-niệm-xứ, thì hành-giả ấy là người chán nản thực-hành pháp-hành bát-chánh-đạo, nên không  thể dẫn  đến  sự giải  thoát  khổ  tử  sinh luân-hồi trong tam-giới.

Hành-giả nào tinh-tấn thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ, thì hành-giả ấy là người có tinh-tấn thực-hành  pháp-hành  bát-chánh-đạo,  nên  có khả năng dẫn đến sự giải thoát khổ tử sinh luân- hồi trong tam-giới.”

Như vậy, thực-hành chánh-niệm là 1 chánh trong pháp-hành bát-chánh-đạo đó là thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ là nhân bắt đầu dẫn đến quả cuối cùng là Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định đó là 8 tâm-sở đồng sinh trong 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm cùng có đối- tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.

Trong Chú-giải kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta-vaṇṇanā giảng giải rằng:

“Pubbabhāgasatipaṭṭhānamaggo” tứ-niệm-xứ là phần đầu của bát-chánh-đạo.

Pháp-hành trung-đạo là pháp-hành tứ-niệm-xứ

Trong Chi-bộ-kinh, phần 3 chi-pháp, Đức- Phật thuyết giảng về 3 pháp-hành (paṭipadā):

1- Āgāḷhā paṭipadā: Pháp-hành hưởng lạc thú trong ngũ-dục là cực đoan.

2- Nijjhāmāpaṭipadā: Pháp-hành tự ép xác hành khổ hạnh là cực đoan.

3- Majjhimāpaṭipadā: Pháp-hành trung-đạo.

Đức-Phật thuyết giảng về pháp-hành trung-đạo rằng:

– Này chư tỳ-khưu! Pháp-hành trung-đạo là thế nào?

– Này chư tỳ-khưu! Trong Phật-giáo này, tỳ-khưu:

1- Là hành-giả có tâm tinh-tấn không ngừng, có  chánh-niệm  trực nhận,  có  trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ thân trong phần thân niệm-xứ, để diệt tham-tâm hài lòng, và diệt sân- tâm không hài lòng trong ngũ-uẩn chấp-thủ này.

2- Là hành-giả có tâm tinh-tấn không ngừng, có chánh-niệm trực nhận, có trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ các thọ trong phần thọ niệm- xứ, để diệt tham-tâm hài lòng, và diệt sân-tâm không hài lòng trong ngũ-uẩn chấp-thủ này.

3- Là hành-giả có tâm tinh-tấn không ngừng, có  chánh-niệm  trực nhận,  có  trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ tâm trong phần tâm niệm-xứ, để diệt tham-tâm hài lòng, và diệt sân- tâm không hài lòng trong ngũ-uẩn chấp-thủ này.

4- Là hành-giả có tâm tinh-tấn không ngừng, có  chánh-niệm  trực nhận,  có  trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ các pháp trong phần pháp niệm-xứ, để diệt tham-tâm hài lòng, và diệt  sân-tâm  không  hài  lòng  trong  ngũ-uẩn chấp-thủ này,  …”

Như vậy, phần đầu của pháp-hành trung-đạo là thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp- hành thiền-tuệ, và đến phần cuối của pháp- hành trung-đạo là đạt đến pháp-hành bát- chánh-đạo hợp đủ 8 chánh đó là 8 tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.

Pháp-hành trung-đạo có 2 giai đoạn:

1- Giai đoạn đầu của pháp-hành trung-đạo.

2- Giai đoạn cuối của pháp-hành trung-đạo.

1- Giai đoạn đầu của pháp-hành trung-đạo

Hành-giả là hạng người tam-nhân đã tích-luỹ đầy đủ các pháp-hạnh ba-la-mật từ vô số kiếp trong quá-khứ, có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có đối-tượng thiền-tuệ sắc- pháp nào hoặc danh-pháp nào đúng theo chân- nghĩa-pháp (paramatthadhamma) có khả năng làm phát sinh trí-tuệ thứ nhất gọi là nāmarūpa- paricchedañāṇa: trí-tuệ thấy rõ, biết rõ, phân biệt rõ thật-tánh của mỗi sắc-pháp hiện-tại ấy, mỗi  danh-pháp  tam-giới  hiện-tại  ấy  đều  là pháp-vô-ngã (anattā) không phải ta, không phải người, không phải đàn ông, không phải đàn bà, không phải chúng-sinh nào, v.v… mà chỉ là sắc- pháp ấy, danh-pháp ấy mà thôi, thuộc về chân- nghĩa-pháp và hành-giả tiếp tục thực-hành pháp- hành  tứ-niệm-xứ  hoặc  pháp-hành  thiền-tuệ  có khả năng phát sinh các trí-tuệ-thiền-tuệ theo tuần tự đến trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 13 gọi là gotrabhu- ñāṇa:  trí-tuệ-thiền-tuệ  có  đối-tượng  Niết-bàn siêu-tam-giới, làm phận sự chuyển dòng từ hạng thiện-trí phàm-nhân lên bậc Thánh-nhân.

Từ trí-tuệ thứ nhất nāmarūpaparicchedañāṇa đến trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 13 gotrabhuñāṇa thuộc về trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới, nên vẫn còn trong giai đoạn đầu của pháp-hành trung-đạo.

Tam-Tuệ-Luân Trong Tứ Thánh-Đế                                       95

2- Giai đoạn cuối của pháp-hành trung-đạo

Hành-giả thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc thực-hành pháp-hành thiền-tuệ liền tiếp theo phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới thứ 14 gọi là Maggañāṇa: Thánh-đạo-tuệ trong Thánh- đạo-tâm  và  trí-tuệ-thiền-tuệ  siêu-tam-giới  thứ 15 gọi là Phalañāṇa: Thánh-quả-tuệ trong Thánh-quả-tâm thuộc về siêu-tam-giới-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.

Trong 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm có bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh là chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh- mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định cùng có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới, nên ở giai đoạn cuối của pháp-hành trung-đạo.

Thực-Hành Pháp-Hành Trung-Đạo

Ban đầu hành-giả thực-hành pháp-hành trung- đạo (majjhimāpaṭipadā) đó là thực-hành pháp- hành tứ-niệm-xứ (thân niệm-xứ, thọ niệm-xứ, tâm niệm-xứ, pháp niệm-xứ), mỗi niệm-xứ đều diệt tham-tâm hài lòng (abhijjhā) và diệt sân-tâm không hài lòng (domanassa) trong đối-tượng tứ- niệm-xứ,  đồng  thời  cũng  diệt  si-tâm  che  phủ thật-tánh của mỗi đối-tượng sắc-pháp, mỗi đối- tượng danh-pháp tam-giới.

Cho nên, hành-giả cần phải học hỏi nghiên cứu, hiểu biết rõ đầy đủ 21 đối-tượng tứ-niệm- xứ (1) như sau:

– Thân niệm-xứ có 14 đối-tượng thuộc về sắc-pháp.

– Thọ niệm-xứ có 1 đối-tượng chia ra làm 9 loại thọ thuộc về danh-pháp.

– Tâm niệm-xứ có 1 đối-tượng chia ra làm 16 loại tâm thuộc về danh-pháp.

– Pháp niệm-xứ có 5 đối-tượng thuộc về sắc- pháp, danh-pháp.

Tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) có thật- tánh rõ ràng làm đối-tượng tứ-niệm-xứ hoặc đối- tượng  thiền-tuệ,  mỗi  đối-tượng  ấy  đều  có  sự sinh, sự diệt, đều có 3 trạng-thái-chung: trạng- thái  vô-thường,  trạng-thái  khổ,  trạng-thái  vô- ngã như nhau cả thảy.

Cho nên, trong 21 đối-tượng tứ-niệm-xứ này, hành-giả thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ sử dụng đối-tượng nào cũng có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não  không  còn  dư  sót,  trở  thành  bậc Thánh A-ra-hán cả thảy.

Khi  hành-giả  thực-hành  đúng  theo  pháp- hành trung-đạo đó là thực-hành pháp-hành tứ- niệm-xứ hoặc thực-hành pháp-hành thiền-tuệ với đại-thiện-tâm trong sạch trung dung trong mỗi đối-tượng hiện-tại, tuyệt đối không nên thiên về đối-tượng nào cả nghĩa là không nên coi trọng đối-tượng này, coi nhẹ đối-tượng kia; bởi vì mỗi đối-tượng sắc-pháp hiện-tại, mỗi đối-tượng danh- pháp hiện-tại thuộc về chân-nghĩa-pháp, có thật- tánh rõ ràng, đều có sự sinh, sự diệt; đều có 3 trạng- thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã như nhau cả thảy; đều có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn.

* Thực-hành sai pháp-hành trung-đạo

Khi hành-giả thực-hành pháp-hành tứ-niệm- xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ, nếu coi trọng đối- tượng này, coi nhẹ đối-tượng kia thì tham-tâm hài lòng với đối-tượng này, và sân-tâm không hài lòng với đối-tượng kia, nên không diệt được tham-tâm trong đối-tượng này, cũng không diệt được sân-tâm trong đối-tượng kia.

Ví  dụ:  Hành-giả  thực-hành  pháp-hành  tứ- niệm-xứ với đối-tượng tứ oai-nghi là 1 trong 14 đối-tượng trong phần thân niệm-xứ.

Khi đang ngồi, hành-giả có chánh-niệm trực nhận nơi toàn tư thế ngồi, toàn dáng ngồi (gọi là sắc ngồi) và có trí-tuệ tỉnh-giác trực giác nơi sắc ngồi (không phải ta ngồi) như vậy. Khi ấy, phóng- tâm phát sinh, hành-giả phải bỏ đối-tượng sắc ngồi, mà theo đối-tượng phóng-tâm, cho nên hành-giả phát sinh sân-tâm không hài lòng nơi đối-tượng phóng-tâm, bởi vì trước đó, hành-giả có tham- tâm nương nhờ hài lòng nơi đối-tượng sắc ngồi.

Hành-giả thực-hành sai pháp-hành trung-đạo, bởi vì hành-giả coi trọng đối-tượng sắc ngồi, và coi nhẹ đối-tượng phóng-tâm, nên không diệt được  tham-tâm  nương  nhờ  nơi  đối-tượng  sắc ngồi (sắc-pháp) và cũng không diệt được sân- tâm nương nhờ nơi đối-tượng phóng-tâm (danh- pháp); cho nên hành-giả thực-hành không đúng pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc không đúng pháp- hành thiền-tuệ.

Như vậy, giai đoạn đầu, hành-giả thực hành không đúng pháp-hành trung-đạo, nên không thể dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn được.

* Thực-hành đúng pháp-hành trung-đạo

Khi hành-giả thực-hành pháp-hành tứ-niệm- xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ, không coi trọng đối-tượng này, cũng không coi nhẹ đối-tượng kia, nên diệt được tham-tâm không nương nhờ nơi đối-tượng này, cũng diệt được sân-tâm không nương nhờ nơi đối-tượng kia.

Ví  dụ:  Hành-giả  thực-hành  pháp-hành  tứ- niệm-xứ với đối-tượng tứ oai-nghi là 1 trong 14 đối-tượng trong phần thân niệm-xứ.

Khi đang ngồi, hành-giả có chánh-niệm trực nhận nơi toàn tư thế ngồi, toàn dáng ngồi (gọi là sắc ngồi thuộc về sắc-pháp) và có trí-tuệ tỉnh- giác trực giác nơi sắc ngồi thuộc về sắc-pháp (không phải ta ngồi) như vậy. Khi ấy, phóng-tâm phát sinh, hành-giả phải bỏ đối-tượng sắc ngồi, mà theo đối-tượng phóng-tâm.

Hành-giả hiểu biết đối-tượng phóng-tâm trong 5 pháp-chướng-ngại (nivaraṇa) là 1 trong 5 đối- tượng trong phần pháp niệm-xứ, hành-giả có chánh-niệm trực nhận nơi đối-tượng phóng-tâm thuộc về danh-pháp, và có trí-tuệ tỉnh-giác trực giác nơi danh-pháp phóng-tâm (không phải ta phóng-tâm).   Khi   đối-tượng   phóng-tâm   diệt, hành-giả trở lại đối-tượng sắc ngồi như trước.

Dù cho đối-tượng thiền-tuệ nào có thay đổi nhưng đại-thiện-tâm có chánh-niệm và trí-tuệ tỉnh-giác vẫn trực giác nơi đối-tượng thiền-tuệ hiện-tại  ấy,  cho  nên  hành-giả  thực-hành  đúng theo pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc đúng theo pháp- hành thiền-tuệ.

Hành-giả thực-hành đúng pháp-hành trung- đạo, bởi vì hành-giả không coi trọng đối-tượng sắc ngồi (sắc-pháp), và cũng không coi nhẹ đối- tượng phóng-tâm (danh-pháp), có đại-thiện-tâm trung dung trong mỗi đối-tượng thiền-tuệ ấy, nên tham-tâm không nương nhờ nơi đối-tượng sắc ngồi (sắc-pháp) và sân-tâm cũng không nương nhờ nơi đối-tượng phóng-tâm (danh-pháp), đồng thời si-tâm không nương nhờ nơi đối-tượng sắc- pháp, danh-pháp ấy; hành-giả thực-hành đúng theo  pháp-hành  tứ-niệm-xứ  hoặc  đúng  theo pháp-hành thiền-tuệ cho nên hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ được tiến hành thuận lợi.

Như vậy, giai đoạn đầu, hành-giả thực-hành đúng theo pháp-hành trung-đạo, nên dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn.

* Cho nên, đối với hành-giả thực-hành pháp- hành tứ-niệm-xứ hoặc thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, trước tiên, hành-giả cần phải học hỏi hiểu biết rõ về trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế và trí-tuệ-hành phận sự trong mỗi Thánh-đế.

Khi đang thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, hành-giả cần phải có yonisomanasikāra: do trí-tuệ hiểu biết trong tâm đúng theo 4 trạng-thái của tất cả mọi  sắc-pháp,  mọi  danh-pháp  trong  tam-giới làm nhân-duyên phát sinh chánh-niệm và trí-tuệ tỉnh-giác hỗ-trợ cho hành-giả thực-hành đúng pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc thực-hành đúng pháp-hành thiền-tuệ cho nên hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ được tiến hành thuận lợi.

Nhân-duyên phát sinh chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác

Tất cả các pháp phát sinh đều do nhân-duyên, chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác phát sinh cũng do nhân-duyên.

Vậy, do nhân-duyên nào để cho chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác phát sinh?

Trong bài kinh Avijjāsutta Đức-Phật thuyết giảng đoạn nhân quả liên hoàn tuần tự như sau:

“Thường được gần gũi thân cận với bậc thiện- trí, mới lắng nghe chánh-pháp được đầy đủ.

– Có lắng nghe chánh-pháp được đầy đủ, mới có đức-tin được đầy đủ.

– Có đức-tin được đầy đủ, mới có yoniso- manasikāra được đầy đủ.

– Có yonisomanasikāra được đầy đủ, mới có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác được đầy đủ.

– Có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác được đầy đủ, mới giữ gìn lục môn thanh-tịnh được đầy đủ.

– Có giữ gìn cẩn  trọng  lục môn thanh-tịnh được đầy đủ, mới có thân hành thiện, khẩu hành thiện, ý hành thiện được đầy đủ.

–  Có  thân  hành  thiện,  khẩu  hành  thiện,  ý hành  thiện  được  đầy đủ,  mới  có  tứ-niệm-xứ được đầy đủ.

– Có tứ-niệm-xứ được đầy đủ, mới có thất- giác-chi được đầy đủ.

– Có thất-giác-chi được đầy đủ, mới có trí- minh (vijjā) Thánh-đạo-tuệ và giải-thoát (vimutti) Thánh-quả-tuệ được đầy đủ.”

Đoạn kinh trên đây “có yonisomanasikāra được đầy đủ, mới có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh- giác được đầy đủ”.

Vậy, yonisomanasikāra là pháp như thế nào?

Ý nghĩa Yonisomanasikāra

Yonisomanasikāra có 3 từ ghép là:

Yoniso + manasi + kāra

– Yoniso: với trí-tuệ.

– Manasi: trong tâm.

– Kāra: sự hiểu biết.

Yonisomanasikāra trí-tuệ hiểu biết trong tâm đúng với 4 trạng-thái của tất cả mọi sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới như sau:

Tam-Tuệ-Luân Trong Tứ Thánh-Đế                                    103

– Sắc-pháp danh-pháp có trạng-thái vô-thường (anicca) thì trí-tuệ hiểu biết đúng là vô-thường.

–   Sắc-pháp   danh-pháp   có   trạng-thái   khổ (dukkha) thì trí-tuệ hiểu biết đúng là khổ (dukkha).

– Sắc-pháp danh-pháp có trạng-thái vô-ngã (anattā) thì trí-tuệ hiểu biết đúng là vô-ngã (anattā).

–  Sắc-pháp  danh-pháp có  trạng-thái  bất-tịnh (asubha) thì trí-tuệ hiểu biết đúng là bất-tịnh (asubha).

Yonisomanasikāra: Trí-tuệ hiểu biết trong tâm đúng với 4 trạng-thái: trạng-thái vô-thường, trạng-thái  khổ,  trạng-thái  vô-ngã,  trạng-thái bất-tịnh trong tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh- pháp trong tam-giới, làm nhân-duyên phát sinh chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác hỗ trợ chính cho hành-giả  thực-hành  pháp-hành  thiền-tuệ,  dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.

Tính chất đặc biệt của yonisomanasikāra

* Yonisomanasikāra là 1 trong 4 chi-pháp để trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, như trong bài kinh Sotāpattiyaṅgasutta Đức Phật dạy 4 chi-pháp để trở thành bậc Thánh Nhập-lưu như sau:

1- Sappurisasaṃseva: Sự gần gũi thân cận với bậc thiện-trí trong Phật-giáo.

2- Saddhammassavana: Sự lắng nghe chánh- pháp của bậc thiện-trí.

3- Yonisomanasikāra: Trí-tuệ hiểu biết trong tâm đúng với 4 trạng-thái của mọi sắc-pháp, danh-pháp trong tam giới.

4- Dhammānudhammapaṭipatti: Thực-hành pháp-hành  thiền-tuệ  hướng  đến  chứng  đắc  9 siêu-tam-giới-pháp: 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.

Như vậy, muốn trở thành bậc Thánh Nhập- lưu, hành-giả cần phải có đầy đủ 4 chi-pháp này.

Yonisomanasikāra là chi-pháp quan trọng hỗ trợ hành-giả thực-hành đúng theo pháp-hành thiền-tuệ, để dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến và hoài-nghi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

* Yonisomanasikāra là pháp hỗ trợ hành-giả thực-hành đúng theo pháp-hành trung-đạo (majjhimāpaṭipadā) diệt tham-tâm trong đối- tượng  sắc-pháp,  danh-pháp  và  diệt  sân-tâm trong  đối-tượng  sắc-pháp,  danh-pháp;  bởi  vì nhờ  yonisomanasikāra  nên  ngăn  chặn  được tham-tâm và sân-tâm không nương nhờ trong mọi đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp tam-giới.

Ví dụ: Hành-giả đang thực-hành pháp-hành- thiền-tuệ với đối-tượng oai-nghi ngồi, có chánh- niệm trực nhận mỗi tư thế ngồi, dáng ngồi ấy, có trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ mỗi tư thế ngồi, dáng ngồi ấy là sắc ngồi (không phải ta ngồi), nên tham-tâm không nương nhờ nơi sắc ngồi mà phát sinh, dù khi phóng-tâm là danh-pháp phát sinh, nhưng sân-tâm vẫn không nương nhờ nơi phóng-tâm mà phát sinh. Đó là do nhờ yonisomanasikāra trí-tuệ hiểu biết sắc ngồi  thuộc  về  sắc-pháp  có  trạng-thái  vô-ngã, nên tham-tâm không phát sinh, dù khi phóng- tâm thuộc về danh-pháp cũng có trạng-thái vô- ngã, nên sân-tâm vẫn không phát sinh.

Cũng như trên, khi oai-nghi ngồi là sắc ngồi phát sinh thọ khổ, sắc ngồi khổ (không phải ta khổ), sân-tâm không phát sinh.

Hành-giả cần phải thay đổi oai-nghi ngồi cũ sang oai-nghi đi mới là sắc đi, để làm giảm bớt thọ khổ của oai-nghi ngồi cũ. Dù khi thay đổi oai-nghi đi mới cho bớt khổ, tham-tâm hài lòng vẫn không phát sinh. Đó là do nhờ yoniso- manasikāra trí-tuệ hiểu biết trong tâm đúng với 4 trạng-thái của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp tam-giới, cho nên, dù có thay đổi đối-tượng nào, vẫn có chánh-niệm trực nhận, trí-tuệ tỉnh-giác theo dõi trực giác đối-tượng hiện-tại ấy một cách tự nhiên.

Cho nên, yonisomanasikāra trí-tuệ hiểu biết trong tâm đúng với 4 trạng-thái của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới hỗ trợ cho hành-giả thực- hành đúng pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc thực- hành đúng pháp-hành thiền-tuệ đúng theo pháp- hành trung-đạo diệt-từng-thời được tham-tâm và sân-tâm trong mỗi đối-tượng sắc-pháp, danh- pháp hiện-tại ấy.

Tuy nhiên, yonisomanasikāra còn là pháp hỗ trợ  cho  mọi  thiện-pháp,  kể từ dục-giới thiện- pháp,  sắc-giới  thiện-pháp,  vô-sắc-giới  thiện- pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp nữa.

Trái nghĩa với yonisomanasikāra là ayoniso- manasikāra

* Ayonisomanasikāra có 3 từ ghép là:

Ayoniso + manasi + kāra

– Ayoniso: do si-mê,

– Manasi: trong tâm,

– Kāra: sự hiểu biết.

Ayonisomanasikāra do si-mê biết trong tâm sai lầm với 4 trạng-thái của tất cả mọi sắc- pháp, mọi danh-pháp tam-giới như sau:

– Sắc-pháp danh-pháp có trạng-thái vô-thường (anicca) thì si-mê biết sai lầm cho là thường (nicca).

–  Sắc-pháp  danh-pháp  có  trạng-thái  khổ (dukkha) thì si-mê biết sai lầm cho là lạc (sukha).

–  Sắc-pháp  danh-pháp  có  trạng-thái  vô-ngã (anattā) thì si-mê biết sai lầm cho là ngã (attā).

–  Sắc-pháp  danh-pháp có  trạng-thái  bất-tịnh (asubha) thì si-mê biết sai lầm cho là tịnh (subha).

ayonisomanasikāra: si-mê biết trong tâm sai lầm trong 4 trạng-thái của mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp  tam-giới  cho  là  thường,  lạc,  ngã, tịnh làm nhân-duyên phát sinh pháp-điên-đảo (vipallāsa).

Pháp-điên-đảo (vippallāsa) có 3 loại:

1- Tưởng-điên-đảo (saññāvipallāsa): Tưởng sai lầm nơi sắc-pháp, danh-pháp tam-giới cho là thường, lạc, ngã, tịnh.

2- Tâm-điên-đảo (cittavipallāsa): Tâm biết sai lầm nơi sắc-pháp, danh-pháp tam-giới cho là thường, lạc, ngã, tịnh.

3- Tà-kiến-điên-đảo (diṭṭhivipallāsa): Tà-kiến thấy sai lầm nơi sắc-pháp, danh-pháp tam-giới cho là thường, lạc, ngã, tịnh.

Như vậy, 3 pháp-điên-đảo nhân với 4 điều sai lầm (thường, lạc, ngã, tịnh) gồm có 12 pháp- điên-đảo này làm nhân-duyên phát sinh mọi tham-ái, mọi phiền-não, mọi ác-pháp tuỳ theo đối-tượng, làm che phủ thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới. Nên chỉ có yonisomanasikāra, trí-tuệ hiểu biết trong tâm đúng với 4 trạng-thái: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, trạng-thái bất- tịnh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp trong tam-giới, mới ngăn chặn được 12 pháp- điên-đảo ấy mà thôi.

Đức-Phật dạy về tính chất ayonisomanasikāra và yonisomanasikāra trong Chi-bộ-kinh, phần 1 chi-pháp như sau:

– Này chư tỳ-khưu! Như-lai không thấy một pháp  nào  làm  nhân-duyên  cho  ác-pháp  chưa phát sinh thì phát sinh hoặc thiện-pháp đã phát sinh, rồi bị diệt như ayonisomanasikāra.

– Này chư tỳ-khưu! Khi người nào có ayoniso- manasikāra thì làm nhân-duyên cho ác-pháp chưa phát sinh thì phát sinh hoặc thiện-pháp đã phát sinh, rồi bị diệt.

– Này chư tỳ-khưu! Như-lai không thấy một pháp nào làm nhân-duyên cho thiện-pháp chưa phát sinh thì phát sinh hoặc ác-pháp đã phát sinh, rồi bị diệt như yonisomanasikāra.

– Này chư tỳ-khưu! người nào có yoniso- manasikāra thì nó làm nhân-duyên cho thiện- pháp chưa  phát  sinh  thì  phát  sinh  hoặc  ác- pháp đã phát sinh rồi bị diệt.

Dhamma Nanda

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app