Khoá Thiền Vipassana Đầu Tiên Bằng Tiếng Anh Năm 1970 – Viện Nghiên Cứu Vipassana

KHOÁ THIỀN VIPASSANA ĐẦU TIÊN BẰNG TIẾNG ANH NĂM 1970 – VIỆN NGHIÊN CỨU VIPASSANA

Sayagyi U Ba Khin, người thầy tôn kính của tôi, đã tin tưởng mạnh mẽ rằng 2500 năm sau lần nhập đại niết bàn của Đức Phật (mahaparinibbana, lần nhập diệt cuối cùng của Đấng Giác ngộ), thì chu kỳ Phật Giáo thứ hai (chu kì giảng pháp) sẽ bắt đầu trở lại vùng đất nguyên thủy của nó, và từ đó lan rộng khắp thế giới, vì lợi ích vô biên của loài người.

Dhamma sẽ một lần nữa hồi sinh với sự thực hành Vipassana. Trong nhiều thiên niên kỷ, Vipassana đã bị thất truyền ở Ấn Độ. Man mắn thay, nó đã được gìn giữ trong sự tinh khiết nguyên bản của nó ở Myanmar (Miến Điện).

Gần cuối giai đoạn 2500 năm này, Đại hội Kết tập Kinh điển Phật Giáo Lần thứ Sáu được tổ chức từ năm 1954 đến 1956 tại Yangon (Rangoon). Chính trong thời gian này – từ ngày 1 đến ngày 11 tháng 9 năm 1955 – tôi được khai sinh trong Giáo Pháp. Đây là thời điểm tôi tham dự khóa thiền Vipassana đầu tiên của mình.

Sau mười bốn năm ban phát lợi lạc tới tôi, Vipassana trở về Ấn Độ vào ngày 22 tháng 6 năm 1969, với phước lành của Thầy tôi. Sau khoảng 2000 năm trôi qua. Dù có sự nghi ngờ về năng lực lan toả của bản thân tôi, Dhamma bắt đầu bén rễ ở Ấn Độ.

Tôi chỉ là một phương tiện. Dhamma đang làm công việc riêng của mình. “Đồng hồ của Vipassana đã điểm,” Sayagyi thường nói. “Vào thời điểm này, nhiều người được trời phú cho paramita (đức hạnh) khi được sinh ra ở Ấn Độ và một quốc gia khác trên thế giới. Tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ Vipassana này sẽ thu hút những người này về với Dhamma”.

Điều cần xảy ra đã xảy ra. Vô số người từ các quốc gia, tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau bắt đầu tham gia các khóa thiền. Các nhà lãnh đạo từ các tôn giáo khác nhau cũng tới. Tất cả đều chấp nhận kỹ thuật này; không ai trong số họ cảm thấy nó xa lạ.

Các khóa thiền Vipassana đầu tiên này được giảng dạy bằng tiếng Hindi vì phần lớn các khóa thiền được tổ chức ở vùng Bắc Ấn Độ. Sau một vài tháng, một số người phương Tây cũng bắt đầu tham gia các khóa thiền này.

Sau khi giảng Pháp bằng tiếng Hindi, tôi thường giảng lại một bài dài năm đến mười phút cho các thiền sinh. Họ đã làm việc rất chăm chỉ và hướng dẫn đó đủ để họ đạt được kết quả đáng ngạc nhiên.

Dần dần, những lời khen ngợi dành cho Vipassana được lan truyền tới các du khách phương Tây. Một năm sau, nhóm khách du lịch ở Dalhousie yêu cầu tôi đến đó và thực hiện một khóa thiền dành riêng cho họ.

Đối với tôi, điều đó là khó khăn. Toàn bộ khóa thiền sẽ phải được thực hiện bằng tiếng Anh. Hướng dẫn một vài câu bằng tiếng Anh và đồng thời xóa tan nghi ngờ là điều đơn giản. Tuy nhiên nếu là một bài giảng dài một tiếng bằng tiếng Anh, hoặc nếu để có thể truyền cảm hứng trong suốt cả ngày, như tôi đã làm được khi nói tiếng Hindi, thì là điều không thể đối với tôi.

Ở Rangoon, tôi thường đọc bài phát biểu bằng tiếng Anh với tư cách là Chủ tịch Hiệp hội Thương mại và Công nghiệp, hoặc khi có buổi nói chuyện quan trọng trước công chúng. Tôi không có kinh nghiệm cũng không có khả năng nói chuyện bằng tiếng Anh mà không cần nhìn văn bản.

Và đối với bài giảng về thiền, trong đó tôi phải diễn tả các thuật ngữ tương đương bằng tiếng Anh về chủ đề tâm linh Ấn Độ; điều này thậm chí còn khó khăn hơn đối với tôi.

Vì vậy, tôi bày tỏ sự bất lực của mình khi thực hiện một khóa thiền bằng tiếng Anh và khuyên họ nên tiếp tục tham gia các khóa thiền được thực hiện bằng tiếng Hindi. Họ lập luận rằng trong khi các thiền sinh nói tiếng Hindi được hưởng lợi rất nhiều từ các bài giảng truyền cảm hứng, các thiền sinh nước ngoài lại đang gặp khó khăn. Bên cạnh đó, họ đã thuyết phục tôi rằng tôi có đủ vốn tiếng Anh để thực hiện khóa thiền.

Khi tôi từ chối, họ liên lạc với Sayagyi U Ba Khin và phàn nàn với ông ấy về tôi. “Thưa Ngài, ở Miến Điện hiện chỉ có một trong những đại diện của Ngài dạy kỹ thuật này và ông ta không chấp nhận yêu cầu của chúng tôi”, họ nói. “Chúng tôi có thể đi đâu để học kỹ thuật này?”

Bên cạnh đó, người ta không thể xin được visa lưu trú quá 3 ngày khi đến Miến Điện. Vì vậy, họ đã cầu xin Sayagyi chỉ định tôi tiến hành các khóa thiền bằng tiếng Anh.

Khi đó tôi đang ở Bombay. Người thầy tôn kính của tôi đã gọi điện tới và khuyên tôi nên đến Dalhousie để thực hiện khóa thiền đó. Ngài nói với tôi bằng sự kiên quyết đầy yêu thương: “Ông phải đi. Dù sao  đi nữa ông sẽ biết cách giảng bằng tiếng Anh. Ông sẽ thành công. Dhamma sẽ nâng đỡ ông. Nguyện san sẻ mettā tới ông.” Sau khi nhận được sự trấn an mạnh mẽ như vậy, tôi đã đến Dalhousie.

Tôi không có lý do gì để từ chối việc đi đến Dalhousie. Thực tế, tôi đã có đủ lý do cho chuyến đi này. Đây sẽ là khóa thiền đầu tiên của tôi trong lòng dãy Himalayas . Sayagyi từng nói: “Ai biết được tu bao nhiêu kiếp ta mới được ngồi thiền trong các hang động thanh bình của dãy Himalayas”. Đó là lý do tại sao khi đến đó, tâm trí tôi tràn ngập sự niềm vu. Sự nghi ngờ bản thân bắt đầu tan biến.

Khóa thiền bắt đầu. Trong hai ngày đầu tiên, khi ngồi trên chiếc ghế Dhamma, tôi đã trải qua cảm giác nghẹn thở không thể giải thích được. Kết quả là, tôi không thể giảng quá mười lăm phút vào buổi tối đầu tiên.

Vào buổi tối thứ hai, tôi phải vật lộn để có thể giảng trong khoảng 25 phút. Tôi lại cảm thấy ngột ngạt. Mặc dù, tôi không tìm thấy nguyên nhân nào trong lớp bề mặt của tâm trí tôi, tôi cảm thấy rằng chính sự tự ti về khả năng nói tiếng Anh đang tạo ra những trở ngại ở cấp độ sâu nhất.

Nhưng nguyên nhân thực sự hóa ra là một cái gì đó khác. Đây là một khóa thiền nhỏ với mười một thiền sinh. Nó được tiến hành trong một ngôi nhà gỗ nhỏ tên là Shanti Kutir. Các buổi ngồi thiền chung và pháp thoại được tổ chức trong một căn phòng nhỏ. Người thiền sinh mời tôi đến khóa thiền thì ở phòng bên cạnh.

Vào ngày thứ ba, tôi cảm nhận những rung động mạnh mẽ, không thánh thiện, đang chống lại Giáo Pháp từ căn phòng đó đang làm ô uế thiền đường bên cạnh.

Một mặt, với những rung động thuần khiết của dãy Himalayas và sự mạnh mẽ mettā của người thầy đáng kính, mặt khác, tôi không thể hiểu điều gì có thể gây ra những rung động chống lại Dhamma.

Chiều hôm đó, khi tôi qua căn phòng đó để kiểm tra, tôi giật mình khi nhìn thấy hộp sọ người trên bàn. Bên cạnh là con dao quằm lớn nhuộm đầy máu, [một con dao mà binh sự Nepan sử dụng].

Người học trò giải thích anh ta là đệ tử của Kim Cương Thừa [thành viên của một giáo phái thần bí]. Chỉ ba đêm trước, anh ta đã đến điểm hỏa táng và hiến tế động vật bằng con dao quằm này như một phần của nghi lễ. Đạo sư của anh ta đã nói với anh ta rằng việc hành thiền của anh sẽ rất thành công nếu giữ hộp sọ và con dao kế.

Bây giờ tôi đã hiểu nguyên nhân của những rung động tiêu cực, ngột ngạt tràn ngập khắp phòng thiền. Chỉ sau nhiều lần tôi thuyết phục, anh ta mới ném con dao và hộp sọ đó xuống hang. Và ngay sau đó, rung động chống lại Dhamma đã bị loại khỏi Shanti Kutir.

Chiều hôm đó, tôi ngồi thiền trên chiếc ghế Dhamma một lúc lâu. Thời gian cho bài pháp thoại buổi tối đến gần. Tôi thấy rằng toàn bộ bầu không khí, được gột rửa bởi những làn gió thanh khiết từ dãy Himalayas, thậm chí còn trở nên tinh khiết hơn với những rung động mettā của Dhamma từ người thầy đáng kính của tôi.

Chỉ một vài phút trước khi bắt đầu bài pháp thoại, những rung động của Dhamma tràn ngập bản thể đi qua đỉnh đầu tôi. Tôi bắt đầu bài giảng và tôi nói tiếng Anh trôi chảy như khi nói tiếng Hindi. Tôi đã nói liên tục trong cả một giờ.

Sau năm phút nghỉ giải lao, tôi lại tiếp tục thuyết những bài dài với sự trôi chảy. Tôi có thể thấy rằng tất cả các thiền sinh – nam và nữ – đang thiền ở tầng sâu. 9 giờ tối, khi một ngày kết thúc, khuôn mặt họ rạng rỡ. Tôi vô cùng ngỡ ngàng.

Chính mettā của Sayagyi đã cho tôi sức mạnh Dhamma để biến những điều dường như không thể thành có thể. Khóa thiền Vipassana đầu tiên bằng tiếng Anh đã thành công. Những gì Dhamma mong muốn đã xảy ra.

Sau đó, tất cả các khóa thiền đều là song ngữ. Hàng ngày, tôi đã đưa ra các bài giảng tiếng Hindi vào buổi sáng và các bài giảng tiếng Anh vào buổi tối. Các bài hướng dẫn cũng là song ngữ.

Ngày càng nhiều khóa thiền như thế được thực hiện. Số lượng thiền sinh nước ngoài tăng dần. Các khóa thiền ở những nơi như Bodhgaya, Kushinagar, Varanasi và Rajagir hầu như chỉ có mặt của thiền sinh nước ngoài. Lời truyền lan tỏa đến nhiều nước phương Tây. Các nhóm người nước ngoài đã đến để học Vipassana. Với một số trung tâm không đủ chỗ, nhiều người phải chờ khóa tiếp theo.

Trong một vài năm, hàng ngàn người từ khoảng tám mươi quốc gia đã đến tham gia các khóa thiền Vipassana bao gồm cả thiền sinh đến từ hai nước láng giềng Sri Lanka và Thái Lan. Đã đến lúc lời tiên tri và nguyện ước hồi sinh Dhamma của Sayagyi trở thành sự thật.

Vipassana sẽ lan rộng khắp thế giới. Có lẽ đó là lý do tại sao tôi có thể thực hiện các khóa thiền bằng tiếng Anh. Nếu không, Vipassana sẽ không thể lan toả tới nhiều người trên thế giới.

Tôi cảm thấy mãn nguyện. Cánh cửa Vipassana đã mở và Dòng sông Hằng Dhamma vô cùng lợi lạc đang tuôn chảy đến các thiền sinh từ Ấn Độ ra thế giới.

* Các Bài Viết Này Được Tổng Hợp Hoặc Chuyển Ngữ Từ Các Tài Liệu Về Thiền Do Thiền Sư S.N. Goenka Giảng Dạy Theo Truyền Thống Thiền Sư Sayagyi U Ba Khin. Tài Liệu Thuộc Bản Quyền Của Viện Nghiên Cứu Vipassana VRIDhamma.org & Dhamma.org. Tài Liệu Chỉ Mang Tính Tham Khảo. Để Học Phương Pháp Thiền Này, Quý Vị Nên Tìm Hiểu Thông Tin & Đăng Ký Tham Dự Khoá Thiền Tại Dhamma.org.

 

 

Dhamma Nanda

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app