Chương I

KHAI DẪN – BỐN KHẢ NĂNG ÐẮC ÐẠO

Trong bộ Puggalapaññaṭṭi (Nhân chế-định) của Tạng Abhidhamma và trong Aṅguṭṭara nikāya (Tăng-chi bộ) có giải thích rằng:

Chúng-sanh được gặp Giáo-pháp của Ðức Chánh-đẳng-giác có bốn hạng:

1) UgghāṭiṭaññuKhai thị tri giả. Là hạng chúng-sanh tỏ ngộ. pháp (dhammābhi-samayo) khi vừa mở đề. Tức là chứng-đắc từ sơ-quả đến A-la-hán như trường-hợp Ngài Sārīpuṭṭa, Moggallāna, Bāhiya … chỉ nghe câu pháp ngắn gọn cũng đắc đạo-quả.

2) VipañciṭaññuQuảng diễn tri giả. Là hạng chúng-sanh không thể chứng Ðạo-quả khi nghe một câu pháp ngắn, một thời pháp ngắn, tuy nhiên, nếu thời pháp được giảng rộng, hay được lặp lại nhiều lần, người này chứng đạt đạo-quả, như trường-hợp Ngài Yāsa, trưởng giả Anāṭhapiṇḍika, bà Visākhā …

3) Neyya Ứng dẫn giả. Là đắc đạo-quả do tuần tự tiến, tức là không thể chứng-đắc ngay, dù bài pháp được thuyết-giảng rộng.

Hạng người này cần phải được hướng dẫn, chiêm nghiệm cẩn thận với tác-ý khéo (yoniso manasikāra), lại phải thân-cận với bậc trí giả. Nhờ vậy, người này có thể chứng đạo-quả.

Hạng Neyya có nhiều hạng tùy theo thời gian hành-đạo và phước độ ba-la-mật (pāramī) tích trữ, cùng với phiền-não tiềm tàng mạnh hay yếu.

Hạng Neyya bao gồm những người hành-đạo với thời gian tối thiểu là 7 ngày cho đến cuối đời (như trưởng-lão Ciṭṭaguṭṭa mất 55 năm hành-đạo).

Nếu tinh-tấn hành-đạo từ 7 ngày cho đến khoảng giữa tuổi thọ, chúng-sanh này có thể chứng-đắc đạo-quả A-la-hán, vào cuối tuổi thọ chỉ có thể đắc đến Bất-lai quả mà thôi.

Mặt khác, nếu với thời gian 7 ngày đắc quả, người này phải tinh-tấn dõng mãnh, nếu không có tinh-tấn cao độ thì thời gian hành pháp sẽ kéo dài, 7 ngày có thể trở thành 7 tháng, 7 năm hoặc lâu hơn.

Và cần biết rằng: người Neyya, nếu sự tinh-tấn không đủ mạnh trong suốt cuộc đời, thì sự giải-thoát khổ không thể có được. Tức là, không thể giải-thoát trong Giáo-pháp đức Phật hiện-tại; tuy nhiên, cũng là pháp tinh-tấn pāramī, sẽ giải-thoát trong Giáo-pháp của Ðấng Chánh-giác vị-lai.

Sự giải-thoát trong Giáo-pháp của đức Phật vị-lai trở thành hiện thực, khi người này gặp lại chính pháp môn đang hành-trì trong hiện-tại, như trường-hợp Ngài Cūlapanṭhaka quán thể trược khi nhìn vào chiếc khăn vò trong tay, phát-triển tuệ-quán chứng-đắc A-la-hán cùng với Hóa-tâm minh, do tiền kiếp thường quán thể trược hay vị đệ tử của Ngài Sārīpuṭṭa, quán vô-thường qua tịnh-tướng hoa sen do đức Phật hóa hiện, chứng-đắc A-la-hán, vì trong tiền kiếp là thợ bạc thường nhìn tịnh tướng.

Cũng nên ghi nhận rằng: hạng Neyya có 2 loại là:

– Niyaṭa Neyya (xác định ứng dẫn giả): Là người được đức Phật thọ ký chắc chắn sẽ giải-thoát.

– Aniyaṭa Neyya (bất định ứng dẫn giả): Là người chưa được đức Phật thọ ký, sự giải-thoát khổ còn bất định, cho dù người ấy đã viên-mãn pháp ba-la-mật (pāramī), gặp được đức Phật Chánh-giác, như trường-hợp vua Ajāṭasaṭṭu (A-xà-thế).

4) Padaparama Văn cú tối vi giả. Là hạng người không thể đắc đạo-quả trong kiếp sống ấy, cho dù người này nghe nhiều, nhớ nhiều, giảng pháp nhiều.

Hạng người này dù cố-gắng tinh-tấn hành pháp cũng không thể chứng-đắc đạo-quả, hạng người này chỉ có thể tích lũy phước báu ba-la-mật cùng tập khí (vāsanā).

Tuy không giải-thoát trong hiện kiếp, nhưng do tích lũy phước báu ba-la-mật theo con đường thiền Chỉ (samaṭha) hoặc thiền Quán (vipassanā), khi mệnh-chung sẽ sanh lên cõi trời, người ấy có thể đắc đạo-quả trong Giáo-pháp của Ðức Chánh-đẳng-giác trong kiếp ấy, như con ếch sanh làm thiên tử, hay công tử Maṭṭha kuṇḍali trong chú giải kinh Pháp-cú.

Ðức Phật đã tuyên thuyết có bốn hạng người như vậy.

BA LOẠI BỆNH NHÂN

Ðức Phật cũng tuyên thuyết về ba người bệnh liên-hệ đến bốn hạng người ở trên.

Bệnh nhân chắc chắn bình phục khi đúng thời, dù không cần phải uống thuốc hay chữa trị.– Bệnh nhân hy-vọng khỏi bệnh nếu uống đúng thuốc và chữa trị đúng phương-pháp.

Bệnh nhân không thể bình phục dù có uống đúng thuốc và chữa trị đúng phương-pháp.

Hạng bệnh nhân thứ nhất ám ý chỉ cho những chúng-sanh được Ðức Chánh-giác quá-khứ thọ ký (niyaṭa vāyākarana – tuyên bố nhất định).

Hạng bệnh nhân thứ hai ám chỉ hạng người Neyya, người bệnh có thểø khỏi bệnh hoặc chết, ám chỉ cho hạng chúng-sanh có thể đắc đạo-quả hoặc không.

Nếu hạng người Neyya biết điều nào tốt nên thực-hành, điều nào xấu nên từ bỏ, có sự chỉ dạy đúng đắn từ vị minh-sư, đồng thời có nhiệt-tâm tinh-tấn đầy đủ, người này sẽ đắc đạo-quả trong hiện kiếp ấy.

Nhưng nếu hạng người này gặp nhiều chướng-ngại như: chấp hẳn tà-kiến, lầm đường, không từ bỏ dục-lạc. Hoặc từ bỏ dục-lạc nhưng không gặp minh-sư, hoặc gặp minh-sư có được sự chỉ dạy đúng đắn, nhưng không có tinh-tấn dõng mãnh hành pháp. Hoặc tuy có sự tinh-tấn dõng mãnh nhưng lại bệnh hoạn hay tuổi quá suy nhược, do đó sự tinh-tấn không đủ lực để tiến đạt đạo-quả trong kiếp này.

Hoặc giả, người này có đầy đủ điều-kiện đắc quả trong hiện-tại, nhưng lại phạm vào ngũ nghịch đại tội, hay tự làm hoại duyên lành của mình, như vua Ajāṭasaṭṭu (A-xà-thế) không đắc quả thánh vì phạm tội giết cha là vua Bimbisāra (Bình-sa-vương).

Tương truyền, vị ấy phải luân-hồi 2 A-tăng-kỳ kiếp (asaṅkheyyakappa) mới đắc quả Ðộc-giác Phật.

Trong sớ giải kinh Pháp-cú có ghi câu chuyện: Con vị trưởng giả Mahādhāna trong thời thanh xuân đã ham mê trụy lạc, lại uống rượu nên làm hoại trí, tâm không được an-tịnh, cũng không có cơ hội thân-cận Tam-bảo. Vị ấy khánh tận tài-sản, hai vợ chồng phải dẫn nhau đi xin ăn, nhìn thấy cảnh ngộ của vị ấy, đức Phật dạy rằng:

“- Này Ānanda! Nếu thời thanh xuân, ông Bà-la-môn này là vị tỳ-khưu trong Giáo-pháp Như-lai, sẽ là bậc A-la-hán. Là tỳ-khưu trong thời trung niên sẽ là bậc Bất-lai, mệnh-chung được sanh về Tịnh-cư thiên (suddhāvāsa brahmaloka), tại đó sẽ Vô-dư Níp-bàn.Lại nữa, nếu y xuất-gia vào thời đầu lão niên, sẽ trở thành vị Nhất-lai hay Dự-lưu, vĩnh viễn không rơi vào 4 khổ-cảnh (āpayaloka). Nhưng nay cả thánh sản lẫn tục sản đều không còn”.

Như vậy, tuy đầy đủ pháp độ có thể chấm dứt luân-hồi trong kiếp ấy, nhưng không phải là niyaṭaNeyya puggalā, không được đức Phật thọ ký nên Mahādhāna không thể đắc quả trong Giáo-pháp của đức Phật hiện-tại. Ðó là do các phiền-não đã huân tập trong quá-khứ dấy động, bất chấp sự-kiện được gặp đức Phật hay không.

Mặt khác, khi sa vào khổ-cảnh do ác-nghiệp tạo ra trong hiện-tại thì thời gian bị đọa kéo dài.

Nếu khi đức Phật Meṭṭeyya (Di-lạc) xuất hiện trên thế-gian, vị ấy không được sinh lên gặp Ngài, không thể tiếp nhận pháp. Thế là, sự khổ luân-hồi lại tiếp diễn.

Thế rồi, trải qua vô số kiếp địa cầu không có vị Chánh-giác xuất hiện, y còn phải luân-hồi mãi, còn chịu vô số đau-khổ trong thế gian.

Than ôi! Người có đầy đủ phước báu ba-la-mật lại đi ra khỏi pháp giải-thoát, không thể chuyển hóa kiếp hiện-tại thành kiếp chót để giải-thoát mọi thống khổ, đáng kinh-sợ thay.

Quan niệm chung trong thời hiện-tại này đều cho rằng: “Khi pháp ba-la-mật đầy đủ, dù muốn hay không cũng gặp được đức Phật, nghe pháp do Ngài thuyết và dù quan tâm hay không cũng sẽ giải-thoát”.

Những người có quan niệm như vậy, do không lưu ý đến người nhất định (niyaṭa puggala) tức là người đã được đức Phật Chánh-giác thọ ký hay người bất định (aniyaṭa puggala) là người chưa được thọ ký.

Chúng ta nên hiểu rằng: “Người Neyya bất định, có thể đắc đạo-quả trong hiện kiếp, nếu phát-triển tinh-tấn đầy đủ”.

Ngược lại, cho dù có phước ba-la-mật đầy đủ mà chểnh mảng, thiếu hay không có sự tinh-cần thì đạo-quả không thể có được trong Giáo-pháp đức Phật hiện-tại.

Ngoài ra, còn một số chúng-sanh khác tuy không bị ác-nghiệp cản trở, nhưng lại “sinh bất phùng thời”, như đạo sĩ Alāra, đạo sĩ Udaka có đủ phước ba-la-mật, lại rơi vào tám bất lợi (aṭṭhakkhaṇa: aṭṭha + akhaṇa; akhaṇa là không thuận lợi)

Ðó là: Khi Ðức Chánh-giác xuất hiện trong thế-gian, chúng sanh lại sanh vào:

– Cõi Vô-sắc (arūmina).
– Cõi Vô-tưởng (asaññāsaṭṭa).
– Vùng biên địa (paccanṭara), nơi mà Giáo-pháp Ðấng Như-lai khó lan truyền đến.
– Người lạc vô-nhân (viṭaliṅga): là người có dị tật bẩm sinh như điếc, vô căn, lưỡng căn, đần độn …
– Micchādiṭṭhi: chấp hẳn tà-kiến, là sanh vào dòng của những người chấp-thủ tà-kiến.
– Ngạ-quỉ (peṭa).
– Bàng-sanh (ṭiracchāna).
– Ðịa-ngục (niraya).
PHÁP-HÀNH CHỦ YẾU CHO NGƯỜI NEYYAPADAPARAMA

Nói chung, điều-kiện căn-bản cho đạo-quả sanh-khởi là giới-tịnh (sīlavisuddhi), tâm-tịnh (ciṭṭa visud-dhi) và tuệ-tịnh (paññavisuddhi). Nói gọn hơn là giới-định-tuệ.

Riêng hai hạng người: ugghāṭiṭaññuvipañci-ṭaññu, chỉ nghe một thời pháp có thể chứng-đắc từ Tu-đà-hườn đến A-la-hán quả, do vậy giới -định không cần phải thực-hành nhiều và đây cũng là trường-hợp chứng-đắc của chư-thiên, phạm-thiên, của ông Anāṭhapiṇḍika, bà Visākhā…

Tuy nhiên giới-tịnh, tâm-tịnh vẫn cần thiết cho các vị Thánh hữu-học, vì cần phải thực-hành để tiến đắc các tầng thánh cao hơn.

Riêng các vị A-la-hán tuy viên-mãn các giai-đoạn thanh-tịnh, nhưng giới-tịnh -tâm-tịnh vẫn được vị A-la-hán thực-hành, với mục-đích “hiện-tại lạc-truù” (diṭṭhidhamma sukha vihāra).

Ðối với hai hạng NeyyaPadaparama thì giới-tịnh, tâm-tịnh là điều-kiện cơ-bản, cần phải thực-hành mới hy-vọng đạt đạo-quả.

Theo Aṭṭhakaṭhā (Chú giải): Ngàn năm đầu của Giáo-pháp đức Phật còn quả vị A-la-hán Tuệ phân-tích (paṭisambhidā paṭṭa arahanṭa).

Ngàn năm thứ hai còn quả vị A-la-hán Lục-thông (chalabhiñña arahanṭa).

Ngàn năm thứ ba còn quả vị A-la-hán Tam-minh (ṭevijjā arahanṭa) đồng thời mất tạng Diệu-pháp.

Tạng Diệu-pháp mất đồng nghĩa trí suy giảm, do đó Giáo-pháp hiện-tại (hơn 2500 năm) hai hạng ugghāṭi-ṭaññuvipañciṭaññu không còn, chỉ còn hạng Neyya Padaparama.

NEYYA PUGGALĀ

Người Neyya trong kiếp hiện-tại, nếu có sự tinh-cần dõng mãnh thực-hành pháp trợ-đạo như tứ Niệm-xứ, tứ Chánh-cần… có thể chứng-đắc thánh quả Nhập-lưu (soṭapannā).

Nếu sự tinh-cần chưa đủ đầy, sẽ trở thành thánh Nhập-lưu ở kiếp sau, tức là sau khi mệnh-chung tái sanh về thiên giới, tu-tập sẽ đạt quả vị Nhập-lưu.

Trái lại, hạng Neyya này xa rời pháp trợ-đạo, khi mệnh-chung xem như xa lìa Giáo-pháp của Ðức Chánh-đẳng-giác hiện-tại. Tuy nhiên, người Neyya này vẫn có thể đạt đạo-quả trong thời Giáo-pháp của đức Phật vị-lai, nếu may mắn gặp được Giáo-pháp của Ngài.

PADAPARAMA PUGGALĀ

Người Padaparama trong hiện-tại tuy không thể chứng đạo-quả, nhưng có sự nhiệt-tâm tinh-cần hành pháp trợ-đạo, khi mệnh-chung sanh về thiên giới, có thể đạt được đạo-quả trong Giáo-pháp hiện-tại, vì rằng “Thời-kỳ chư Thánh vẫn còn”.

Tuổi thọ Giáo-pháp của Ðức Như-lai là năm ngàn năm, khoảng thời gian ấy, đều là thời-kỳ của thánh quả trổ khai.

Bao giờ còn Bát chánh đạo, bấy giờ vẫn còn Thánh quả. Và như thế, người Padaparama cần tích cực lợi dung cơ hội cận kề Giáo-pháp, nhằm mục-đích tích trữ, gieo tạo phước ba-la-mật càng nhiều càng tốt. Tức là phải tích lũy, huân tập về giới-định-tuệ.

GIỚI (sīla)

Hạt giống (bīja = chủng tử) của giới là sự nghiêm trì năm giới, bát quan trai giới – không nói đâm-thọc, không nói hung-ác, không nói phù phiếm. Ðó là giới của thiện gia cư-sĩ.

Sa-di có 10 giới. Tỳ-khưu có tứ Thanh-tịnh giới. Ðây là những hạt giống tạo thành sīla pāramī (giới độ), tùy theo phẩm mạo.

ÐỊNH (samādhi)

Hạt giống của Ðịnh là sự tinh-cần trong Chỉ-tịnh, ít nhất phải đạt được ấn-tướng Tiên-khởi (parikamma nimiṭṭa -chuẩn bị tướng) qua bốn mươi đề mục của pháp chánh-định (sammā samādhi) như: mười đề mục kasiṇa, mười đề mục tùy-niệm (anussaṭi) …

Nếu có thể cố-gắng tinh-cần hơn nữa, nên cố-gắng đạt đến cận-định (upācāra samādhi) và cuối cùng đắc định, gọi là An-chỉ định (appanā samādhi).

TUỆ (paññā)

Hạt giống tuệ là sự tu-tập những khả-năng phân-tích được danh (nāma), sắc (rūpa), uẩn (khandha), xứ (āyaṭana), giới (dhāṭu), đế (sacca), và duyên-khởi (paṭiccasammuppāda).

Hoặc là tu về tuệ-quán thấy rõ ba tướng-trạng của pháp hữu-vi là: vô-thường tướng (aniccā lakkhaṇa), khổ-tướng (dukkhā lakkhaṇa) và vô-ngã tướng (anaṭṭā lakkhaṇa).

Ðạo-tuệ (maggañāṇa) và quả-tuệ (phalañāṇa) phát-sanh do nương vào ba hạt giống Giới-định-tuệ.

Giới-định giống như vật trang điểm thế-gian trong thời hiện-hữu giáo pháp đức Phật ngay, cả trong kiếp không (suññaṭa kappa) là kiếp không có Ðức Chánh-đẳng-giác xuất hiện. Tức là giới -định có thể có trong bất cứ thời nào theo ý muốn của hành-giả tu-tập.

Riêng hạt giống tuệ liên quan đến danh-sắc, uẩn, xứ, giới, đế, duyên-khởi, chỉ xuất hiện trong thời Giáo-pháp của Ðấng Chánh-giác.

Ngoài Giáo-pháp của đức Phật, không nơi nào, thời nào được nghe nói những từ ngữ liên quan đến trí như những từ ngữ ấy.

Do đó, người có duyên lành sinh ra trong thời hiện-tại, vào lúc Giáo-pháp của đức Phật đang hưng thịnh, nên có ý-niệm gieo hạt giống đạo-tuệ, quả-tuệ để đạt đến cứu cánh giải-thoát vào thời vị-lai, nên đặc biệt chú ý đến tuệ về chân-đế (paramaṭṭhasacca ñāṇa).

Trong bộ Abhidhammaṭṭha saṅgaha (Thắng-pháp nghĩa nhiếp) có nêu lên bốn pháp chân-đế là tâm, sở-hữu tâm, sắc-pháp và Níp-bàn. Ðó là bốn pháp rất khó xuất hiện trong thế-gian và ít người nhận-thức rõ. Việc nhận-thức được bốn pháp này còn khó hơn tích lũy hạt giống giới -định. Tối thiểu nên cố-gắng đạt cho được tuệ-quán phân-biệt được tứ-đại (đất, nước, lửa, gió), là thành-phần vật-chất cấu tạo nên thân thể của một chúng-sanh. Nếu có tuệ-quán thấy rõ tứ-đại, người này có được kho hạt giống trí tốt, dù họ không có được trí về Abhidhamma (Thắng-pháp).

Như vậy: có thể nói rằng: “Sinh ra gặp Phật-pháp là một hạnh-phúc lớn nhất”.

MINH HẠNH

Giới-định hợp lại là Hạnh (caraṇa). Còn tuệ thuộc về Minh (vijjā). Minh như đôi mắt, còn Hạnh ví như tứ chi, Hạnh là đôi cánh còn Minh là mắt của con chim.

Nói gọn: Minh và Hạnh hỗ-trợ lẫn nhau, có Hạnh không Minh ví như người đầy đủ tứ chi nhưng mù mắt, trái lại có Minh không Hạnh, chẳng khác nào người mắt sáng lại không có tay chân.

Có Minh lẫn Hạnh là người hạnh-phúc, trái lại vắng cả Minh lẫn Hạnh là người đau-khổ nhất, bị mất cả tứ chi lại mù lòa.

Hậu quả do chỉ có Hạnh.

Nhờ có Hạnh nên trong thời Giáo-pháp đức Phật hiện-tại, được gặp và nghe pháp của Ngài, nhưng vì không có hạt giống trí nên sự chứng đạt đạo-quả không hề có, như trường-hợp Ngài Upananda, Lālïudāyi, vua Pasenadi kosala…

Trong hiện-tại, không có hạt giống tuệ, như tuệ-quán thấy rõ danh-sắc hay năm uẩn, cho dù trong vị-lai gặp được đức Phật và nghe pháp của Ðức Chánh-giác vị-lai cũng khó đắc quả thánh.

Như những vị nêu trên, trong quá-khứ tuy có tích lũy thiện hạnh bố-thí, trì-giới… nên trong hiện-tại có cơ hội thân-cận Ðức Thế-tôn, nhưng vì thiếu tích lũy trí trong quá-khứ, dù có nghe pháp đức Phật suốt đời cũng trở nên rỗng không, như rơi vào tai bị điếc.

Hậu quả do chỉ có Minh.

Do có tu-tập Minh-quán về danh-sắc, năm uẩn, nhưng lại thiếu Hạnh như bố-thí, trì-giới. Những người này, nếu may mắn gặp đức Phật, nghe pháp sẽ mau chứng-đắc Ðạo-quả. Nhưng do thiếu Hạnh nên sự-kiện gặp được đức Phật rất khó khăn, đồng thời khi hành-pháp sẽ gặp nhiều chướng ngại.

Nếu trong hiện-tại chỉ chuyên lo về Minh mà không trau dồi Hạnh, sự-kiện gặp được đức Phật vị-lai rất mong manh và bấp bênh.

Thật vậy, sự xuất hiện giữa hai vị Chánh-giác là khoảng thời gian trống không gọi là thời trung-gian (anṭara kappa).

Chúng-sanh vô Hạnh, do tập quán không nghiêm chỉnh trong Giới-luật, nên lăn trôi trong dục-lạc đồng thời lại ít bố-thí. Trong khoảng thời gian này (kiếp không) nếu chúng-sanh ấy may mắn lăn trôi trên nhàn-cảnh thì chẳng nói làm chi (điều này chỉ có một số ít có được), nếu rơi vào khổ-cảnh sẽ luân chuyển vô số kiếp ở cõi khổ, vì sanh lại làm người rất khó.

Vì là người thiếu Hạnh lại ít bố-thí trong hiện-tại, đồng thời không phòng-hộ thân, ngữ, ý, rất dễ-dàng sanh vào khổ-cảnh khi mệnh-chung.

Nếu nhờ may mắn nào đó, họ sanh trở lại cõi người, nhưng vì thiếu bố-thí, nên là người nghèo khổ, lại không nghiêm trì-giới nên gặp nhiều nỗi gian nan, khổ cực trong cuộc sống. Thế là, họ có khuynh-hướng tạo ác-nghiệp, để rồi kiếp sau đó khổ-cảnh sẵn sàng đón họ.

Chính trong hiện-tại do thiếu Hạnh, nên khi tiếp xúc, tranh biện với nhau họ dễ-dàng rơi vào sân-hận, oán thù.

Như vậy, người thiếu Hạnh trong mỗi kiếp sống, thường đối diện với đau-khổ, càng lúc càng tích lũy bất-thiện nghiệp, dễ-dàng đánh mất cơ hội tái-sanh vào nhàn-cảnh. Và như thế, có cơ hội gặp được đức Phật, nghe Giáo-pháp của Ngài quả thật mong manh.

Tóm lại: Người Padaparama muốn chứng-đắc đạo-quả ở kiếp sau trong thời đức Phật hiện-tại, cần hội đủ Minh và Hạnh.

Nếu chỉ có Minh (tu thiền Quán) không Hạnh sẽ không đảm bảo được cơ hội sanh về nhàn-cảnh, gặp được Giáo-pháp đức Phật hiện-tại hoặc Giáo-pháp đức Phật kế tiếp. Trái lại, có Hạnh (chỉ có bố-thí, trì-giới) không Minh, người này không thể đắc quả, cho dù gặp được đức Phật và tự thân nghe Phật thuyết-giảng.

Do vậy, người Padaparama (nam hay nữ), mong đắc đạo-quả trong giáo-pháp này, hay trong giáo-pháp của đức Chánh-giác vị-lai, cần tinh-tấn gieo trồng hạt giống Minh -Hạnh, bằng sự thực-hành bố-thí, trì-giới, tu Quán, ít nhất đạt được tuệ Phân-biệt danh-sắc.

Sở dĩ, bố-thí nằm trong Hạnh, vì bố-thí nằm trong đức-tin (saddhā), là một trong bảy Diệu-pháp (sad-dhammā) của bậc thiện-trí (sappurisa).

Hạnh có mười lăm pháp là:

Giới (sīla).
Thu thúc môn quyền (indriya saṃvara).
Tri-túc vậc thực (bhojanā meṭṭaññuṭā).
Giác-tỉnh (jāgariyānuyoga).
Tín (saddhā).
Niệm (saṭi).
Hổ thẹn tội-lỗi (hiri).
Ghê-sợ tội-lỗi (oṭṭappa).
Ða văn (bahusacca).
Tinh-tấn (viriya).
Trí-tuệ (ñāṇa).
Sơ-thiền.
Nhị-thiền.
Tam thiền.
Tứ thiền.
Tuần tự Pháp-hành

Trong hiện-tại, có hai hạng phàm-nhân trong Phật-giáo: i) Người chờ đợi Giáo-pháp của đức Phật Chánh-giác kế tiếp; và ii) Người nỗ-lực tinh-cần để chứng đạo-quả trong Giáo-pháp hiện-tại.

Người chờ đợi Giáo-pháp của đức Phật: Công việc những người này không gì ngoài sự bổ túc pháp ba-la-mật. Do đó, không nhất thiết cần bám chắc vào trình-tự pháp-hành, tức là trình-tự Giới-định-tuệ.

Nghĩa là sao? Nghĩa là không cần phải thực-hành xong giới-tịnh rồi thực-hành thiền-định, hay thực-hành định (là chứng-đắc cận-định hay an-chỉ định) đầy đủ rồi mới hành Minh-sát.

Tức là không cần phải theo trình-tự bảy pháp thanh-tịnh là:

Giới-tịnh (sīla visuddhi).
Tâm-tịnh (ciṭṭa visuddhi).
Kiến tịnh (diṭṭhi visuddhi).
Ðoạn nghi tịnh (kankhàvitanaṇa visuddhi).
Ðạo phi đạo tri-kiến tịnh (maggàmaggañāṇa dassana visuddhi).
Hành tịnh (paṭipadāñāṇa dassana visuddhi).
Tri-kiến tịnh (ñāṇa dassana visuddhi).
Người này không cần phải trì hoãn một pháp-hành nào cả, khi thuận tiện sẽ tiến hành pháp thích-hợp với điều-kiện có được.

Không cần hoãn tâm-tịnh để thực-hành giới-tịnh trước, khi có cơ hội thực-hành thiền-tịnh thì hành ngay, vì là người đang cần tích lũy phước ba-la-mật càng nhiều càng tốt. Do đó, người này cần cố-gắng tích lũy Giới-định-tuệ theo từng trường-hợp ứng với khả-năng hay điều-kiện có được.

Như người đang thong dong, rảnh rang có dịp hành thiền Chỉ hoặc thiền Quán, lập tức hành ngay không cần đắn đo, chọn lựa: đây là Chỉ-tịnh -đây là Minh-quán.

Người tinh-cần mong đắc quả trong Giáo-pháp hiện-tại: Ðối với người này, trái lại phải theo đúng trình-tự pháp-hành, nghĩa là: sau khi hoàn tất giai-đoạn giới-tịnh mới thực-hành tâm-tịnh, khi hoàn tất giai-đoạn tâm-tịnh mới Minh-quán về ba tướng vô-thường, khổ, vô-ngã. Tức là, hành theo tuần tự: giới-tịnh, tâm tịnh, kiến-tịnh, đoạn-nghi tịnh…

Trình-tự này dùng cho người nỗ-lực tinh-tấn để chứng đạt đạo-quả trong kiếp hiện tại, nơi Giáo-pháp này.

Hạng phàm-nhân trong Giáo-pháp của đức Phật hiện-tại, tự thấy mình không thể dốc hết tinh-tấn để thực-hành pháp, chỉ chuyên chú trong việc tích lũy phước ba-la-mật, Thiền-sư không nên khuyên họ phải hoàn thành giới-tịnh trước khi thực-hành tâm-tịnh, chỉ nên sách tấn họ hoàn thành thiện-pháp Giới-định-tuệ trong hoàn cảnh và điều-kiện họ có được.

Chí đến ngay cả người chài lưới, thợ săn, cũng không nên nói rằng: “Ông không nên nghĩ đến hành thiền Chỉ hay thiền Quán trừ khi ông từ bỏ nghề đang hành”. Nói như thế, sẽ gây chướng-ngại pháp (dhamman-ṭarāya) cho họ.

Nói cách khác, những người thợ săn, chài lưới nên sách tấn họ niệm tưởng về ân-đức Phật-Pháp-Tăng, khuyên họ nên suy tưởng đến các ân-đức ấy, càng nhiều càng tốt.

Và tùy theo khả-năng của họ, nên chỉ họ quán niệm về thể trược trong chính thân họ và người chung quanh, hoặc quán đến sự chết của chúng sinh để rồi nghĩ đến sự chết của chính mình …

Một dân chài được sách tấn như thế, có thể nhớ và đọc lưu loát bài kinh Nissaya của bộ Abhidhammaṭṭha saṅgaha và phẩm Paccaya niddesa (Duyên xiển-thuật) của bộ Paṭṭhāna, trong khi anh vẫn hành nghề đánh cá. Những thành-tựu này, tạo nền-tảng rất tốt cho Minh (vijjā).

Trong thời hiện-tại, đối với các cận-sự nam nữ, vị Thiền-sư cần sách tấn đúng theo truyền-thống của vị tỳ-khưu, là khuyên bảo các cận-sự nên thường xuyên niệm tưởng ân-đức Phật-Pháp-Tăng và ba đặc-tướng vô-thường, khổ, vô-ngã, cho dù họ đang hành nghề chài lưới hay săn bắn.

Niệm tưởng ân-đức Tam-bảo sẽ tạo thành nền-tảng cho Hạnh (caraṇa), quán sát ba đặc-tướng sẽ tạo thành nền-tảng Minh.

Ðiều quan trọng là: không nên bảo rằng “sự thực-hành Chỉ, Quán không thích-hợp với các nghề đánh cá, săn bắn … những nghề có tính vi-phạm giới“.

Ngược lại, nên giúp những người đang hành những nghề có tính-chất vi-phạm giới như: đánh cá, săn bắn… có sự hiểu biết khá hơn, vì đó là hạng người cần sách tấn, khích lệ để bổ túc pháp ba-la-mật cùng những thiện-pháp khác.

Cơ hội cho hạt giống Minh: Một số vị thầy quá công thức về pháp-hành trong kinh văn Pāli, không uyển chuyển thích-hợp và cũng không lưu ý đến thời điểm hiện-tại.

Hoặc có một số vị vì kiến văn hạn-chế, nên không giải thích đầy đủ hai mặt của kinh-điển, chỉ nhận-thức trực tiếp ý-nghĩa hiển-lộ trong kinh văn, còn những phần sâu thẳm lại không lưu ý, các vị ấy nói rằng: “Dù có tinh-tấn tột bực để hành Chỉ, Quán, cũng không có kết quả nếu chưa thực-hành giới-tịnh“.

Và một số người không có điều-kiện giữ giới thanh-tịnh, đã bỏ mất cơ hội gieo hạt giống Minh, đồng thời tạo ra chướng-ngại pháp cho họ. Nên biết rằng: “hạt giống Minh chỉ có trong thời Giáo-pháp của đức Chánh-đẳng-giác“, đừng đánh mất cơ hội đặc biệt quí báu này.

Thời gian chúng-sanh trôi lăn trong vòng luân-hồi dài thăm thẳm, tuy trong quá-khứ có những lần gặp được Giáo-pháp của đức Phật, đến nay vẫn chưa giải-thoát. đức Phật có dạy:

… Kicchaṃ saddhammasavaṇaṃ
kiccho buddhānaṃ uppādo
“… Khó nghe Giáo-pháp,
Khó gặp được Phật”. (Pháp cú 182)

Thời gian không gặp Giáo-pháp so với thời gặp Giáo-pháp ví như số cát sông Hằng so với hạt bụi.

Tuy trong quá-khứ có số chúng-sanh gặp Phật-pháp, nhưng lại không gieo tạo hạt giống Minh, để rồi về sau tuy gặp lại Giáo-pháp của đức Phật, lại vẫn phải trôi lăn trong luân-hồi. Có số chúng-sanh gieo tạo hạt giống Minh trong Giáo-pháp đức Phật quá-khứ, nhưng lại chưa đủ độ chín mùi, để nảy mầm cho quả tốt đẹp. Ðộ chín mùi của hạt giống Minh có nhiều cấp bậc, nghĩa là Minh được thành-đạt, tăng-trưởng theo nhiều cấp độ. Những hạt giống Minh chưa tăng-trưởng là:

– Ðọc tụng những đoạn kinh, bài kinh mà không hiểu ý-nghĩa. Ví như người có kho giống quí, mà không biết trong kho ấy có những hạt giống gì.

– Ðọc tụng kinh tuy hiểu ý-nghĩa, nhưng lại đọc tụng theo truyền-thống. Ví như người tuy biết loại hạt giống quí có tên này, tên này … nhưng chỉ biết đếm là: loại này có bao nhiêu đây, loại này có được bấy nhiêu đây…

– Niệm tưởng ân-đức Tam-bảo suông: như niệm Arahaṃ sambuddho mà không liên tưởng đến ân-đức ấy. Ví như người có chiếc áo giáp hộ thân, tuy mặc trong mình mà không biết công dụng.

Quán tưởng tam tướng: vô-thường, khổ, vô-ngã một cách hời hợt, chung chung hay chỉ quán tưởng trong lúc gặp chướng-ngại, lúc thuận duyên may mắn lại không quán tưởng. Ví như có bảo kiếm sắc bén, nhưng chỉ dùng để đốn lau sậy, phát cỏ mà thôi.

Với cấp độ như trên, quán tưởng tam tướng được xem như hạt giống khá già dặn, có thể nảy mầm nếu tiếp tục tu tiến. Sự nảy mầm của những hạt giống Minh ấy có thể xảy ra ở kiếp sau, nếu có cơ hội tiếp tục công việc quán tưởng ba tướng.

Hạt giống Hạnh-Minh được xem là đầy đủ chất sẵn sàng gieo vào đất để nảy mầm đó là: Sự thực-hành thiền Chỉ, đạt đến Tiên-khởi tướng (parikammanimiṭṭa), hành thiền Quán đạt đến tuệ Phân-biệt danh-sắc dầu chỉ một lần. Ðây là hạt giống Minh-Hạnh đã đủ chất.

Hành-giả thiền Chỉ, tinh-tấn đạt đến Thủ-trì tướng (uggahanimiṭṭa), Thủ-trì tướng là ấn-tướng không rõ rệt cũng không vững-chắc, xuất hiện khi tâm đạt đến trạng-thái gần với cận-định (tức là có được 3 chi-thiền: tầm, tứ, hỷ). Và sự thực-hành thiền Quán đạt đến tuệ Phổ-thông (sammasanañāṇa), là trí thấy đồng thời xác định được tướng của pháp hữu-vi là vô-thường, khổ, vô-ngã, nhưng sự nhận-thức này chưa rõ nét và sâu đậm lắm, vì tam tướng xuất hiện trước khi tuệ-quán lóe sáng.

Phổ-thông trí dù chỉ đạt được một lần, cũng giúp hạt giống tuệ già mạnh thêm. Ðây là cấp độ già mạnh của hạt giống Hạnh -Minh được tăng-trưởng.

Khi tinh-tấn hành thiền Chỉ, đạt được ấn-tướng Tương-tự (paṭibhāganimiṭṭa), ấn-tướng rõ ràng bất động. Tương-tự tướng xuất hiện khi hành-giả đạt đến cận-định, đây là hạt giống Hạnh sẵn sàng nảy mầm.

Ðồng thời hành-giả thiền Quán đạt đến Sanh-diệt trí (udayabhayañāṇa) dù chỉ một lần, xem như hạt giống Minh đã vững mạnh sẵn sàng nảy mầm.

Ðiều nêu lưu ý là: Hạt giống Minh già mạnh là do sự tương ưng với định. Tức là, khi có Tiên-khởi tướng (parikamma nimiṭṭa) định của ấn-tướng này sẽ trợ giúp cho tuệ Phân-biệt danh-sắc sinh khởi, khi có Thủ-trì tướng (uggahanimiṭṭa) định của ấn-tướng này trợ giúp cho tuệ Phổ-thông sanh-khởi và khi có Tương-tự tướng (paṭibhāganimiṭṭa) sẽ giúp cho tuệ Sinh-diệt sanh-khởi.

Sự quan hệ hổ-tương giữa định và tuệ, là do tác-ý (manasikāra) của hành-giả. Tức là trong thiền Chỉ, trí hỗ-trợ cho định, còn trong thiền Quán, định hỗ-trợ cho trí.

Trưởng-lão Sārīpuṭṭa khi nghe Ðức Thế-tôn thuyết-giảng cho du sĩ Dīghanakha (Trường-trảo) về ba thọ, Ngài chứng quả A-la-hán, về sau Ngài thường xuyên nhập Diệt thọ-tưởng định, đây là trí hỗ-trợ định.

Với Nhất-thiết trí, Ðức Thế-tôn nhập Ðại-bi định nên không một thánh đệ tử hay Ðộc-giác Phật nào có Ðại-bi định sánh bằng Ngài. Ðây là trí hỗ-trợ cho định.

Trưởng-lão Cūlapanṭhaka, quán tưởng thể trược, đắc quả A-la-hán, gọi là định hỗ-trợ trí, rồi trí A-la-hán quả hỗ-trợ cho định thông, giúp Ngài đắc Hóa-tâm minh

Trưởng-lão Moggallāna hành thiền, bị phiền-não hôn-trầm, được đức Phật chỉ dạy pháp trừ hôn-trầm và chứng-đắc A-la-hán vào ngày thứ tám sau khi xuất-gia. Ðây là định hỗ-trợ cho trí và Ngài là đệ nhị trí-tuệ trong hàng thánh Ðại đệ-tử.

Dĩ nhiên, những quả vị đặc biệt như thế, là có phần góp sức của adhikāra.

Một số hành-giả hành thiền Quán có ý nghĩ rằng: ‘hành thiền Quán không cần lưu ý đến định”, chính ý nghĩ ấy đã tạo chướng ngại pháp cho tuệ-quán, vì không hiểu rõ sự tác-dụng hỗ-tương giữa định và tuệ như đã trình-bày.

Một số khác lại lý luận rằng: “Khi hành thiền Quán đã có định (ám chỉ sát-na định -khaṇasamādhi) trong đó rồi, nên không cần lưu ý đến định nữa”. Vâng, đúng vậy, trong mỗi sát-ma tâm đều có định, nhưng nếu không tác ý đến thì định không lộ diện.

Các ngài Thiền-sư có ví dụ: “Định trong sát-na tâm ví như dầu trong hạt mè, nếu số lượng hạt mè đầy đủ, số dầu ấy có thể thắp sáng ngọn đèn”. Nhưng nếu có người có một rổ hạt mè, anh muốn thắp sáng ngọn đèn của mình, anh phải ép lấy dầu từ hạt mè ra, khi số lượng dầu mè tạm đủ, anh mới đốt đèn và ánh sáng mới phát-sinh. Dầu có trong hạt mè, công đoạn ép lấy được dầu mới là quan trọng, có được dầu mè mới có ánh sáng. Cũng vậy, định có trong từng sát-na tâm, làm cho định hiển lộ, có sức mạnh để hổ trợ tuệ-quán, đó mới là điều quan trọng; do đó, nói rằng:“cần phải tác-ý đến định, định mới sinh khởi”. Số dầu tạm đủ dùng ví như cận-định.

Nhưng sao lại phải là tác-ý? Tác-ý ở đây là ám chỉ tác-ý khéo (yoniso manasikāra), trong lãnh-vực thiện, tác-ý khéo là điều kiện căn-bản cho mọi pháp-thiện.

ADHIKĀRA

Adhi là cao tột, adhikāra là việc làm cao-thượng. Ở đây ám chỉ sự tạo phước đến đức Phật Chánh-đẳng-giác đồng thời có nguyện vọng giải-thoát. Trong kinh tạng Pāli có ghi rằng:

Khi có nguyện vọng giải-thoát đồng thời cúng dường đến Ðức Chánh-giác, các tầng thiền cùng đạo-quả mới có thể đạt được trong thời Giáo-pháp đức Phật vị-lai“.Như vậy, adhikāra là: “Những hạt giống sẽ thành-tựu”.

Trong thời hiện-tại, những người thực-hành thiền Chỉ -Quán theo truyền-thống, thực-hành cho có lệ hay thực-hành có tính hình-thức, những người này không nằm trong khuôn-khổ tích lũy hạt giống định -tuệ, chỉ có thể gọi là adhikāra.

Trong thời hiện-hữu Giáo-pháp của đức Phật, người nào không gieo tạo, tích lũy hạt giống Minh, Hạnh quả là sự mất mát lớn.

Vì rằng: hạt giống Minh liên-hệ đến tiến trình diễn-hoạt của danh-sắc, chỉ có thể tạo được trong thời Giáo-pháp của đức Chánh-giác và chỉ khi nào biết cách gieo tạo mới có thể tích lũy, làm tăng-trưởng sự già mạnh hạt giống ấy.

Như thế, nếu thấy mình không thể quán-xét đầy đủ về bản chất của danh-sắc, hành-giả nên ghi nhận về tứ-đại, tìm hiểu ý-nghĩa, đặc-tính của tứ-đại, cố-gắng hành pháp để phát-triển tuệ-quán, thấy được nhân sinh lên cùng sự tụ hợp của tứ-đại trong thân.

Tương-quan giữa Giới và Định

Giới là nền-tảng của định, định là vật-thực của tuệ. Ðịnh ví như trái chín thơm ngọt, người muốn hái phải đứng trên nền đất cứng chắc, dùng hết sức mình nhảy lên cao để hái, nếu đứng trên nền đất mềm hoặc sình lầy, không thể phát huy sức mạnh của sự nhảy vọt.

Cùng thế ấy, định sanh-khởi và phát-triển mạnh do nương vào giới, ví như thảo mộc nương vào đất sinh lên và tăng-trưởng.

Giới cần phải nghiêm trì đúng đắn: Là phàm-nhân lại bị chi phối bởi phiền-não, môi trường xung quanh, do đó giới thường bị đứt, bị ô-nhiễm.

Khi bị đứt giới, hay bị ô-nhiễm có thể nguyện thọ-trì-giới trở lại, như thế sẽ làm cho giới trở nên trong sạch, hay có giới trở lại.

Tuy nhiên, nếu đứt giới quá nhiều lần, hiếm khi đắc định trong mười đề mục kasiṇa, mười đề mục thể trược … (là những đề mục đắc được định an-chỉ -appanā samādhi), đồng thời cũng hiếm khi phát-triển được tuệ-quán thấy các pháp về danh-sắc.

Giới ví như sợi dây xâu kết những cánh hoa thiện-pháp: bố-thí, cung-kỉnh, hoan-hỷ phước … trở thành vòng hoa xinh đẹp. Sợi dây bị đứt rồi nối lại nhiều lần, nên rất khó xâu kết dễ-dàng những cánh hoa thiện-pháp.

Những thiện-pháp như: bố-thí, cung-kỉnh, phục vụ…, là vật-thực nuôi dưỡng định và nhờ giới xâu kết, giúp cho các thiện-pháp này phát huy năng-lực. Nhưng vì bị đứt giới nhiều lần, những cánh hoa trở nên rời rạc, do vậy không thể dễ-dàng thành tựu định. Ðịnh khó thành tựu tất nhiên dẫn đến sự khó khăn thành tựu tuệ-quán.

Nhưng nguyên-nhân chính từ đâu? Nguyên-nhân chính là trong hiện-tại có nhiều tà-pháp (micchādhamma) đang hưng-thịnh, những tà-pháp ấy có thể tạo ra chướng-ngại pháp cho người có ý nguyện được giải-thoát.

TÀ PHÁP

Tà-pháp có thể tạo thành chướng-ngại cho chánh-pháp. Ðó là: “những quan điểm sai, những lối thực-hành sai và sự hạn-chế hiểu biết”. Những điều trên đã hạn-chế khả-năng nhận-thức: “hiểm-họa luân-hồi”.

Như có niềm tin rằng: “trong thời này không thể tìm thấy đạo-quả” do đó dẫn đến khuynh-hướng trì hoãn tinh-tấn hành-đạo, mãi mê tạo phước ba-la-mật cho tròn đủ đợi thời Giáo-pháp của đức Phật vị-lai.

Hay tin rằng: “Thời này chỉ có người nhị nhân” là người tái-sanh chỉ có hai nhân là vô-tham (alobhamūla) và vô-sân (adosamūla).

Hoặc nghĩ rằng: “những vị thầy vĩ đại trong quá-khứ không thể xuất hiện trong hiện-tại này…“.

Ðó là những quan điểm lệch lạc.

Hành-giả cần hiểu rằng: Sự tinh-cần dũng-mãnh là điều-kiện cần thiết cho người hành pháp đi đến nơi thoát khổ, cho dù chưa thành-đạt kết quả rốt ráo, nhưng không có thiện-nghiệp nào không đem lại lợi-ích cả. Nếu sự tinh-tấn được thực-hiện tốt, thiện-nghiệp ấy sẽ là nền móng tạo ra những phước báu ba-la-mật, nếu không tinh-tấn sẽ đánh mất cơ hội gieo phước ba-la-mật.

Trong Chú-giải kinh Pháp-cú, ghi câu chuyện bảy vị tỳ-khưu trong thời đức Phật Kassapa, đã lên núi hành-đạo, trong số ấy có năm vị không đắc đạo-quả.

Nhưng trong thời đức Phật hiện-tại, cả năm vị đều đạt đạo-quả đó là: Trưởng-lão Bāhiya, trưởng-lão Pukkusaṭi, trưởng-lão Kumārakassapa, ông Suppa-buddha và người đao phủ có hàm râu đỏ.

Những người có ba-la-mật chưa đầy đủ, nhờ sự tinh-cần hành pháp sẽ bổ túc đồng thời tạo cho phước ba-la-mật trở nên già mạnh. Như vậy, có thể đắc đạo-quả ở ngay kiếp sau trong Giáo-pháp đức Phật hiện-tại, nếu không tinh-tấn, xem như mất cơ hội trui rèn ba-la-mật già mạnh.

Nếu ba-la-mật đã già mạnh, người này dốc hết tinh-tấn hành pháp, đạo-quả có thể chứng đạt ngay trong hiện-tại, ngược lại, nếu không phát-triển tinh-tấn thì đạo-quả khó đạt trong kiếp này hay kiếp sau.

Bằng như là người nhị nhân, khi phát-triển tinh-tấn có thể thành người tam nhân trong kiếp kế, trái lại không tinh-tấn, chẳng những không trở thành người tam nhân, mà có thể lui sụt, trở thành người lạc vô-nhân (aheṭuka puggala: là người có tật bẩm sinh từ trong bụng mẹ).

Giả như, có người muốn trở thành vị tỳ-khưu, có người bảo rằng: “Hãy suy nghĩ lại đi: nếu bạn muốn trở thành tỳ-khưu suốt đời, bằng không đừng có ý nghĩ ấy“. Nói như thế, chẳng khác nào tạo chướng-ngại pháp cho người muốn xuất-gia tỳ-khưu.

Ðức Phật có dạy rằng: “Như-lai tuyên thuyết rằng: chỉ khởi ý trong thiện-pháp cũng có lợi-ích lớn“. (Majjhimanikāya).

Xem thường hạnh bố-thí hay làm cho người bố-thí lui sụt ý chí, cũng có thể tạo chướng-ngại pháp cho người hành-thiện và cho cả chính mình. Sự bố-thí bị gây trở ngại, có thể làm khánh kiệt tài-sản, trở nên nghèo khó trong những kiếp sau, người gây ra trở ngại bố-thí cho người khác cũng gặp phải nhiều chướng ngại trong cuộc sống.

Mặc khác, cũng từ đó có thể tạo ra những khiếm khuyết về Hạnh, như dể-duôi trong giới-luật, phóng túng thân -ngữ -ý, rơi vào hưởng-thụ dục-lạc, dẫn đến khiếm khuyết các căn quyền trong hiện-tại lẫn vị-lai.

Nếu sự giữ giới, tu thiền Chỉ-Quán bị xem thường, thì người ấy tạo ra chướng-ngại pháp cho chính mình, dẫn đến những hậu quả tai hại như đã giải.

Ðức Phật có dạy: Khó sanh làm người, cơ hội được làm người thật hiếm hoi, cần phải lợi dụng kiếp người để sống cho thật là người. Nghĩa là, làm cho thân này trở nên hữu-ích có giá trị.

Nói cách khác, cần cảnh giác trước những tà-pháp bằng sự tinh-tấn cao độ, để đóng cánh cửa đi vào bốn khổ-cảnh, đồng thời tích lũy những hạt giống tốt, những yếu tố cần thiết để khai mở đạo-quả giải-thoát trong kiếp này, kiếp sau hoặc trong thời Giáo-pháp của đức Phật vị-lai.

Và chỉ có nhiệt-tâm tinh-cần hành thiền Chỉ, thiền Quán, mới giúp người tầm cầu thoát khổ thành-tựu được ý nguyện ấy.

PHÁP TRỢ-ÐẠO (Bodhipakkhiya Dhamma)

Cơ duyên được sinh làm người trong thời Giáo-pháp của Ðấng Như-lai thật hiếm hoi, cần phải tích cực gần với pháp giải-thoát, để tầm cầu lợi-ích giác-ngộ. Pháp trợ-đạo là con đường duy nhất, khai mở cánh cửa vô-sinh, thoát khỏi luân-hồi khổ.

Những người muốn phát-triển Minh-Hạnh qua thiền Chỉ, thiền Quán với sự nhiệt-tâm không thối chuyển, cần phải gắn liền với pháp trợ-đạo, để hạt giống giải-thoát sẵn sàng nảy mầm cho quả an lạc.

Pháp trợ-đạo gồm 7 nhóm là:

Bốn Niệm-xứ (saṭipaṭṭhāna).
Bốn Chánh-cần (sammappadhāna).
Bốn Như-ý-túc (iddhipāda).
Năm Quyền (indriya).
Năm Lực (bala).
Bảy Giác-chi (bojjhaṅga).
Tám Chi-đạo (maggaṅga).
Tổng cộng là 37 pháp.

Ðược gọi là bodhi pakkhiya là vì hình thành một phần (pakkhiya) của sự giác-ngộ (bodhi). Sự giác-ngộ ở đây ám chỉ đạo-tuệ (magga-ñāṇa). Những pháp này là nhân gần (paṭṭhāna) là vật-thực (sabhāra), là nền-tảng, là cận y duyên (nissaya paccayo) cho đạo-tuệ.

-ooOoo-

 

 

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app