BIỂU TƯỢNG VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA BÁNH XE

Cái Trục Của Bánh Xe

Bây giờ chúng ta hãy ghé mắt nhìn sang bức họa “Pháp Luân” kèm theo quyển sách nhỏ này. Bức này do tác giả (Đại Đức Khantipalo) thực hiện, dựa theo một bức hình vẽ thuần túy Tây Tạng của Waddel. Trong bức này cảnh vật và người đã được hiện đại hóa phần nào.

Phần nồng cốt của bức hình vẽ là trung tâm điểm, đối với những ai còn mãi mãi sống trong vòng luân hồi. Như vậy, đó cũng là nơi tốt nhất để bắt đầu diễn tả biểu tượng này. Ngay giữa bức họa có một con gà, một con rắn, và một con heo, con này cắn đuôi con kia, tiếp nối nhau chạy vòng quanh. Đó là ba con vật tượng trưng cho lòng tham ái, sân hận và si mê. Được vẽ ngay trung tâm vì đó là căn cội, là nguyên nhân, của tất cả những nghiệp bất thiện và do đó, cũng là căn nguyên của mọi thọ cảm trong vòng luân hồi. Ngày nào mà còn tham, sân, si, hiện hữu trong tâm thì ta còn bị thế gian vô thường chuyển biến chi phối. Khi nó không còn nữa. Khi mà, nhờ thực hành Giáo Pháp, trí tuệ đã được khai triển và đã tận diệt tham, sân, si, chừng ấy ta sẽ tìm thấy an nghỉ, trạng thái vắng lặng, tịch tịnh không lay chuyển của Niết Bàn. Nên ghi nhận rằng trong những bức họa của người Tây Tạng, ba con thú ấy được vẽ trên nền xanh dương, có nghĩa là ba tệ hại này của tâm, mặc dầu có năng lực hùng mạnh, nhưng quả thật là không có thể chất, hư vô, cũng như tất cả những thành phần khác mà chúng ta thọ cảm.

Con gà màu đỏ chói lọi tượng trưng lòng tham (lobha). Cái tham này nằm trong tất cả mọi ý muốn, dưới mọi hình thức ‘tôi muốn’, ‘tôi ước mong’, ‘tôi hy vọng’, ‘tôi phải có’, ‘tôi sẽ có’, từ hình thức thô kịch của lòng tham ái, bám níu vào những thể vật chất, xuyên qua sự luyến ái đeo níu vào những quan kiến, những ý niệm, dài dài đến những hình thức tế nhị như các ấn chứng, phỉ lạc của người hành thiền. Màu sắc đỏ chói của con gà biểu hiệu sự thiêu đốt của dục vọng. Dục vọng thật nóng và không ở yên, như ngọn lửa, không bao giờ cho phép tâm của người ôm ấp nó kinh nghiệm tình trạng vắng lặng, an tĩnh, thanh bình mát mẻ của trạng thái buông bỏ. Con gà trống được chọn để tượng trưng cho lòng tham vì theo sự quan sát chung, nó là con vật đầy tham ái và tự phụ. Mỏ con gà gặm đuôi con rắn màu xanh lá cây, hàm ý rằng người không “thỏa mãn” được lòng tham muốn và ái dục mênh mông như biển cả của mình có khuynh hướng nổi giận. Tâm sân (dosa) phát sanh dưới nhiều hình thức khác nhau, khi ta không thành đạt những gì mong muốn, hay khi những gì ta không muốn lại đến với ta. Loại tâm này cũng thật rất tế nhị ở nhiều mức độ, từ căm hờn oán giận thô sơ, xuyên qua những trạng thái tâm thù nghịch đối với người nào, đến sự phật lòng nghịch ý bên trong, bộc lộ ra ngoài bằng những lời lẽ gian dối, tinh ranh, hay giận dỗi hơn nữa là bằng những cử chỉ hung bạo. Màu xanh lá cây của con rắn diễn tả tánh cách lạnh lùng, lãnh đạm, thiếu thiện cảm, đối với kẻ khác. Còn con rắn, là một loài thú sát hại chúng sanh khác bằng chất độc hay bằng cách siết chặt lại, và đó đúng là cái gì mà trạng thái sân gây nên cho người dung dưỡng, bảo trì nó trong tâm. Cuộc sống của chúng ta có thể nhiễm chất độc của con thú tai hại ấy nếu ta không biết thận trọng tiêu trừ nó.

Phía dưới vòng trung tâm ấy là con heo nặng nề, mỏ gặm đuôi con gà tham ái, còn đuôi của chính nó thì bị con rắn sân hận cắn. Con heo màu đen, tượng trưng tâm si (moha). Cũng như các bạn đồng loại của nó, con heo này ở khắp nơi, thích ngủ nhiều, ăn uống hàm hồ và thường không quan tâm đến việc sạch sẽ chút nào hết. Đây là một biểu tượng rất đúng cho tâm si, vì tâm si ngăn cản, không để chúng ta hiểu biết chân chánh điều nào có lợi và điều nào làm cho ta sụp đổ. Tình trạng nặng nề của heo gợi cho ta ý niệm hôn trầm của thân và tâm, được gọi bằng những danh từ khác nhau như đần độn, ngớ ngẩn, dã dượi, những lo âu và phóng dật với hoài nghi cũng phát sanh từ căn si. Người bị tâm si tràn ngập không biết được tại sao phải giữ mình không làm điều ác vì người ấy không có tâm sáng suốt để thấy được những gì lợi ích cho chính mình mà cũng không có tâm bi mẫn để thấy những gì lợi ích cho kẻ khác. Tất cả đều bị bao trùm dưới lớp si mê, hay ảo tưởng. Người ấy không biết hay không tin tưởng rằng hành động có tác ý (nghiệp) sẽ đem lại hậu quả tương xứng cùng một loại. Hoặc nữa, người ấy bị quan kiến sai lầm của mình dẫn dắt tách rời ra ngoài con đường của Giáo Pháp. Khi người ta không thành đạt những gì mà mình mong muốn – xuyên qua tâm tham hay tâm sân – thì lấy làm buồn, và sự đau khổ vì tham dục ấy là đau khổ vì si mê, vì bị tâm si làm mờ ám, mê muội, không nhận ra bản chất vô thường của vạn pháp. Từ con heo đen tối sanh ra con gà đỏ chói lọi và con rắn màu xanh lá cây.

Trong bức họa, ba con thú vào bậc nhất ấy được trình bày con này cắn đuôi con kia, hàm ý rằng chúng quả thật mật thiết dính liền với nhau, không thể tách rời ra được. Chẳng hạn như không thể có con quỷ tham ái mà không có những con quái kia kín đáo bám sát theo đuôi. Khi có con gà tức phía sau đuôi ẩn tàng có rắn và có heo. Chí đến bên trong những nhân vật chỉ có một trong ba căn cội ấy phát triển nổi bật, hai con kia vẫn kín đáo ẩn tàng hiện hữu, trong khi phần đông những người gọi là “bình thường” vẫn có một loại quân bình không lành mạnh của ba con thú ấy trong tâm, luôn luôn sẵn sàng gieo ảnh hưởng mỗi khi có cơ hội thuận lợi. Ba con thú ấy không ngừng hoạt động trong tâm của những ai còn là phàm nhân (puthujjana), và luôn luôn gây mầm cho chúng ta thọ nhiều cảnh khổ. Chính ta phải tự quán chiếu, nhận thức xem các con thú ấy có kiểm soát tâm mình hay không.

Vòng trung tâm

Từ trung tâm của bức tượng, vòng tròn đầu tiên chia ra làm hai phần (không thấy trong bổn của người Tây Tạng), một phần nền trắng và một phần nền đen. Trong phần nền trắng có bốn người đang đi lên: một thầy tỳ khưu tay cầm đèn (ánh sáng của Pháp Bảo) soi đường đi trước. Theo sau đó có một nữ tu sĩ đắp y trắng, và sau nữa là một người đàn ông và một người đàn bà, mặc thường phục theo thời bấy giờ. Bốn nhân vật ấy tượng trưng hàng tứ chúng – đoàn thể Phật Giáo – gồm có Tăng, Ni, Thiện Nam và Tín Nữ. Đó là hình ảnh của những ai thực hành chân chánh con đường tạo thiện nghiệp bằng thân, khẩu, ý. Bốn nhân vật ấy tượng trưng cho hai hạng người, “những người đi từ tăm tối đến ánh sáng” và “những người đi từ sáng đến sáng”. Hạng trước là những người có nghiệp xấu trong quá khứ, sanh ra trong cảnh nghèo khổ, khó khăn, tuy có ít cơ hội, nhưng tận lực cố gắng thực hành Giáo Pháp, vì lợi ích cho chính mình và cho kẻ khác. Vậy, từ cảnh ngộ tối tăm, những người này đi đến nơi sáng lạn vì hậu quả của nghiệp hiện tại sẽ tốt đẹp, vui vẽ, hạnh phúc. Hạng thứ nhì, “đi từ sáng đến sáng” là những người đã thành đạt khá nhiều lợi ích và có nhiều cơ hội trong kiếp sống hiện tại nhờ nghiệp tốt đã tạo trong quá khứ. Trong hiện tại, những người này tiếp tục con đường đi lên bằng cách gia công thêm, thực hành Giáo Pháp.

Thực hành Giáo Pháp là thế nào? Có hai danh sách, mỗi bên gồm mười yếu tố đáng lẽ phải được giải thích nơi đây, nhưng vì khuôn khổ một quyển sách nhỏ chỉ cho phép trình bày tóm lược những nét đại cương. Danh sách thứ nhất gọi là “Mười Con Đường Tạo Thiện Nghiệp (5) “, trong ấy ba liên quan đến thân, bốn đến khẩu, và ba đến ý. “Con Đường” ở đây có nghĩa là “đường lối hành động”, và “thiện” có nghĩa “không làm suy sụp tâm của chính mình và tổn hại đến tâm của người khác”. Những hành động mà ta phải tránh không nên làm là giết hại sanh linh, lấy của không được cho và phẩm hạnh không trong sạch về tình dục. Trong lời nói, bốn hành động phải tránh là nói dối, nói đâm thọc, nói thô lỗ và nói nhảm nhí. Ba hành động của ý phải tránh là tham ái, sân hận và tà kiến. Người tránh được mười điều trên là thực hành thập thiện nghiệp, con đường chân chánh, con đường thiện, con đường trắng, đúng theo những giai đoạn tu tập đầu tiên trong Giáo Pháp.

Mười yếu tố thứ nhì được gọi là “Mười Lối Tạo Phước Báu (6) ” Puñña, công đức, hay phước báu, là những hành động có khả năng thanh lọc tâm. Danh sách mười yếu tố này không đi song song với danh sách trước. Ba yếu tố đầu là đường lối căn bản và ba phần sau là phần phụ thuộc. Ba yếu tố căn bản là bố thí (dàna), trì giới (sìla) và phát triển tâm hay hành thiền (bhàvana), và bảy yếu tố còn lại được xem là những khía cạnh khác nhau của phần trước, gồm hành động tôn kính bậc trưởng thượng, phục vụ, hồi hướng phước báu đến người khác, nghe Pháp, dạy Pháp và củng cố chánh kiến. Đó là những hành động dẫn đi lên, đi đến thiện hạnh và đến mức trưởng thành trong Giáo Pháp, cho ta mà cũng vì lợi ích của kẻ khác.

Những ai đi trên con đường ấy ắt hướng bước tiến về ánh sáng, có thể tái sanh vào hai cảnh giới, hoặc người hoặc cảnh những chúng sanh “sáng ngời rực rỡ” – chư Thiên trong tam giới: Dục, Sắc và Vô Sắc. Một đời sống có thực hành chân chánh và tốt đẹp thường tạo nghiệp đưa vào hai cảnh ấy, gọi là sugati, cảnh hữu phước. Nhưng Đức Thế Tôn không có tuyên bố rằng mỗi ai có một nếp sống như thế nào nhất định phải tái sanh vào cảnh kia. Điều ấy không phải chỉ tùy thuộc ở mức độ thực hành Giáo Pháp mà còn tùy thuộc nơi cảnh tượng phát hiện trước mắt khi sắp lâm chung. Vào phút cuối cùng, nếu lơ đễnh lãng quên ta cũng có thể lọt vào ba cảnh bất hạnh và rất khó thoát ra. Vòng luân hồi quả thật nguy hiểm, cho đến những người có cuộc sống hầu như trong sạch cũng phải hết lòng thận trọng. Được sanh vào hai cảnh hữu phước là quả lành của thiện nghiệp, hay puñña, phước báu. Và tâm càng trong sạch cảnh giới được sanh vào càng thanh cao và hữu hạnh.

Trong phần đen của vòng tròn, chúng sanh trần truồng, ngả nghiêng ngã ngửa một cách hỗn độn, vô trật tự. Trạng thái trần truồng tượng trưng cho tánh không biết hổ thẹn khi làm điều bất thiện, và trạng thái vô trật tự hàm ý điều ác luôn luôn đưa đến trạng huống tan rã, hỗn độn. Ngả nghiêng có nghĩa là những người ấy đang ngã té và đang đi xuống vì đã có hành động thấp kém hơn loài người. Những người này hướng về trạng thái thích ứng với hành động của họ, nghĩa là thấp kém hơn loài người. Trong nhiều bức họa của Tây Tạng, những người này bị cột trói chum lại với nhau và trong một góc có con quỷ cái đang xô họ xuống. Con quỷ cái ấy chính là ái dục (taņhà, một danh từ thuộc về giống cái). Lẽ dĩ nhiên, ái dục không ở bên ngoài người đi trên con đường ác mà chính ở trong tâm họ. Trên con đường này có hai hạng người. Hạng đi từ “ánh sáng vào bóng tối”, và những người đi từ “bóng tối đến bóng tối”. Hạng người trước có cơ hội tốt trong đời nhưng không biết cách xử dụng, hoặc nữa, họ đã lợi dụng những cơ hội tốt đẹp ấy để làm điều bất thiện, và như thế, họ đã hoang phí những quả phúc đã tạo trong tiền kiếp mà không tạo thêm được gì trong hiện tại để tích trữ cho tương lai. Thay vì tạo nghiệp tốt, do tâm si, họ lại chọn đường lối tích trữ nghiệp xấu ở hiện tại để rồi sẽ phải gặt hái lo sợ và sầu muộn trong tương lai. Những người đi từ “đen tối đến đen tối” không có được những ưu điểm của hạng người trước. Họ sanh ra trong hoàn cảnh thiếu thốn đủ mọi mặt do nghiệp xấu quá khứ, và chính quả dữ ấy đưa đẩy họ vào những cảnh khổ, và trong cảnh bất hạnh họ càng tạo thêm nghiệp xấu.

Hai hạng người này đi dài theo con đường của Mười Ác Nghiệp, thường được gọi là thập bất thiện nghiệp, gồm: sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói đâm thọc, nói thô lỗ cộc cằn, nói nhảm nhí, tâm tham ái, tâm sân hận và tà kiến. Những người ấy không thỏa thích trong việc tạo phước báu, trái lại, bẩm tánh của họ là bỏn xẻn, không giới hạnh, tâm buông lung không trau giồi, không phát triển, ngã mạn, ích kỷ, luyến ái vào sở hữu, tham lam, không bao giờ nghe Pháp và chắc chắn là không bao giờ nói Pháp. Trong lúc ấy thì tâm của họ ở trong tình trạng hỗn độn với những quan kiến và ý niệm trái ngược nhau.

Trong đời sống, những người ấy mải miết theo đuổi hành động bất thiện. Đến lúc lâm chung “tánh chất người” bên trong họ đã bị tiêu diệt hầu hết, nên họ phải rơi vào ba trạng thái thấp kém gọi là cảnh giới bất hạnh, duggati. Kể theo thứ tự của mức độ suy sụp của họ và tăng trưởng đau khổ mà họ phải chịu, ba cảnh giới ấy là cảnh ngạ quỷ, cảnh thú và cảnh địa ngục. Quả đúng thật như trường hợp: “Hành thiện, quả lành. Hành ác, quả dữ” – theo một tục ngữ của người Thái. Hai phần của vòng đầu tiên này cũng là sự diễn đạt một đoạn được lập đi lập lại mỗi khi chấm dứt một tích truyện Avadàna:

“Vậy, này chư Tỳ Khưu, nghiệp hoàn toàn đen mang quả hoàn toàn dữ. Nghiệp hoàn toàn trắng mang quả hoàn toàn lành. Và nghiệp hỗn hợp mang quả hỗn hợp. Do đó, hãy tránh tạo những nghiệp hoàn toàn đen và nghiệp hỗn hợp. Hãy gia công cố gắng tạo nghiệp hoàn toàn trắng. Vậy, này chư Tỳ Khưu, phải tự mình tu tập.”

Năm Phần

Hai cảnh giới hữu phúc và ba cảnh giới bất hạnh bao gồm toàn thể các cảnh giới mà chúng sanh có thể tái sanh vào. Trong phần lớn các bức vẽ ở Tây Tạng có thêm cảnh giới thứ sáu, chia cảnh Trời làm đôi, cảnh của các vị Trời (Deva, chư Thiên) và cảnh Asura (A Tu La), những người chống đối các vị Trời. Sau đây là phần diễn tả các cảnh giới ấy và đề cập đến lý do tại sao, bằng cách nào chúng ta sanh vào đó. Sự tái sanh vào một cảnh giới chỉ là hậu quả. Dưới đây là nguyên nhân.

Một người mãi làm ác trong đời sống, hay đã phạm một trọng tội, đến lúc lâm chung ắt sẽ thấy cảnh tượng có liên quan đến những hành động ác đã làm trong quá khứ, hoặc thấy cảnh giới mà hành động bất thiện hay nghiệp xấu quá khứ chuẩn bị mình đến. Khi cơ thể vật chất không còn thích hợp để làm nền tảng nâng đỡ đời sống, tâm người ấy sẽ tạo một cơ thể mới mà ta nói là vô hình, hay ma quỷ, một thể chất tế nhị mà mắt người không thể trông thấy và chừng ấy, người kia bắt đầu thọ cảm những khổ đau của cảnh giới mà họ đang ở trong đó. Nhưng, trong trường hợp mà nghiệp người ấy đưa họ vào cảnh thú, thì lúc lâm chung họ thấy những cảnh thú và bị lôi kéo vào bào thai hoặc trứng của loài thú.

Nghiệp đưa vào cảnh thú là hành động nặng nề những gì mà loài người chia xẻ với loài thú như ăn, uống và tình dục. Nếu con người tăng cường tánh chất thú bên trong mình để trở thành con-người-thú” thì không thể trông chờ gì khác hơn là tái sanh vào cảnh thú. Chúng sanh trong cảnh người mà chỉ khao khát và thỏa thích trong dục lạc thô kịch như vậy đã chôn sâu gốc rễ tai hại của tâm si vào lòng mình, tất nhiên đã tạo cho mình cái tâm “thú”, sẽ không có “tánh chất người”, cái tinh hoa chánh yếu của loài người, để có thể ngăn ngừa một tai họa tương tợ, bởi vì không có cái gì như một linh hồn “người” trường tồn bất biến. Muốn canh phòng, giữ mình khỏi phải rơi vào cảnh ngộ ấy, con người phải bảo vệ “tánh chất người” của mình, tức là những điều kiện của loài người (manusa0dhamma), nghĩa là năm giới. Chìm đắm xuống dưới mức phẩm hạnh của năm giới là chìm đắm xuống dưới mức độ bình thường của loài người. Một khi đã tái sanh vào cảnh thú rồi ắt không còn đường lối nào dễ dàng để trở lại cảnh người nữa. Như Ngài Nàgàrjuna (Long Thọ) viết:

“Từ cảnh thú vượt lên đến cảnh người còn khó hơn là con rùa mù mà thấy được một cái ách trôi giạt bềnh bồng trên mặt biển mênh mông. Vậy, đã là người, hãy thực hành và thành đạt quả lành của Giáo Pháp.” (7)

Nghiệp đưa vào cảnh địa ngục, trạng thái đau khổ và đáng sợ nhất, thường là những hành động gồm tâm sân, tâm sát hại, hành hạ, dày xéo và hung bạo với chúng sanh. Con người tự đưa mình vào trạng thái cực kỳ đau khổ của địa ngục vì đã làm cho căn sân trở nên vô cùng hùng mạnh bên trong mình. (L.K. 59)

Đằng khác, chúng sanh trong cảnh người mà để cho căn tham của mình tăng trưởng quá độ, sống bỏn xẻn, luyến ái sở hữu, ích kỷ, tất sẽ đi đến cảnh giới vô hình có lòng ái dục thật mạnh đến đỗi không bao giờ thỏa mãn được. Vì lẽ ấy chúng sanh này được gọi là ngạ quỷ, tức quỷ đói, chúng sanh cảnh âm luôn luôn ở trong trạng thái đói.

Tuy nhiên, đôi khi có người tạo nhiều nghiệp ác trong đời sống nhưng đến giờ phút lâm chung lại thành thật quay về tinh thần đạo đức. Trong trường hợp này, nếu tâm được tập trung vào Giáo Pháp và nhờ niềm tin nơi Tam Bảo thanh lọc, người như thế ấy có thể tái sanh vào cảnh người trở lại, hay cũng có thể vượt lên cảnh giới chư Thiên. Còn nghiệp ác đã tạo, mặc dầu sẽ không có cơ hội để trổ sanh quả trong cảnh giới hữu phước mà người ấy đã được sanh vào vẫn còn đó, với đầy đủ khả năng tạo quả rất dữ lúc nào hội đủ cơ duyên thuận lợi. Chuyện ngược lại, cũng có thể xảy ra. Những người tốt và cao thượng, nhưng trong giờ phút lâm chung lại lơ đễnh nhớ lại một vài hành động ác nhỏ đã làm, hay thấy trở lại cảnh tượng xấu trong một kiếp quá khứ. Kết quả là để tâm ô nhiễm phát sanh và dẫn đến các cảnh giới vô phước.

Nhưng đó là những trường hợp hiếm hoi. Thông thường, ai đã theo con đường trắng sẽ tái sanh vào cảnh người hay cảnh Trời. Căn bản của cảnh người là thực hành năm giới, vì đó là mức độ bình thường của loài người. Năm giới ấy là: tránh sát hại sanh linh, tránh lấy của nào chưa được cho đến, tránh những hành động sai lạc về tình dục, tránh nói dối, và tránh dùng những chất say, như rượu mạnh và ma túy, làm cho tâm phóng dật. Những ai đã tránh những điều tương tợ là đã thật sự sống như một con người, đã tăng cường nền tảng “người” trong tâm và sẽ tái sanh trở lại làm người với nhiều đặc tánh tốt đẹp, có được nhiều cơ hội để tiến bộ cũng như có nhiều tài sản và tư hữu vật chất khác.

Đường lên các cảnh Trời là con đường của những ai đặc biệt cố gắng sống đời trong sạch và thu thúc, có nhiều tâm từ đối với tất cả chúng sanh và nhờ đó, thanh lọc tâm được phần nào trong công trình hành thiền. Đến giờ phút cuối cùng, vì đã thực hành đầy đủ Thập Thiện Nghiệp và Mười Phương Cách Tạo Phước (Puñña), tâm thỏa thích và an tĩnh, tùy theo những mức độ tu tập khác nhau của người ấy, sẽ đưa họ vào một trong những cảnh Trời khác nhau, tương xứng với mức độ tâm trong sạch và an trụ đã thành tựu.

Những trường hợp có thể xảy đến ấy đều nằm trong phạm vi của tâm. Mà đặc tánh của tâm là luôn luôn biến chuyển, theo chiều này hay hướng kia, do nghiệp tốt hay xấu. Chính “thức nối liền” hay “thức tái sanh”, tức chập tâm đầu tiên trong một kiếp sống, sẽ quyết định loại danh-sắc, lục căn, của chúng sanh mới và cảnh giới mà trong đó chúng sanh ấy gặt hái hậu quả của nghiệp đã gieo trồng trong quá khứ. Còn tri giác sẽ tùy theo đó mà thay đổi – như câu nói trứ danh sau đây diễn tả:

“Cũng như những chúng sanh khác nhau tri giác khác nhau trước tô nước:
Đối với chư Thiên, đó là sinh khí.
Với người, chỉ là nước lã để uống,
Trong khi đó, đối với loài ngạ quỷ,
Nước ấy tựa hồ như máu, như mủ,
Đối với Long Vương và loài cá,
Đó là môi trường để sống.
Cùng nước ấy, đối với các Ngài Phạm Thiên
Ở cõi Không Vô Biên Xứ, đó chỉ là không gian.
Như vậy, bất luận gì, sống hay chết,
Bên trong hay ở ngoài một người
Đều được nhận thức khác nhau
Tùy theo quả báo của nghiệp.”

Đọc xong những câu như trên chúng ta đã thoáng nhìn thấy bề sâu thầm kín, bí ẩn, của tâm và chân lý của những kinh Phật ngôn mở đầu Kinh Pháp Cú:

“Tâm dẫn đầu các pháp (tâm sở);
Tâm là chủ. Tất cả (các tâm sở) đều do tâm tạo…”

Trở về bức họa. Trong cảnh giới của chư Thiên – Deva, hay những chúng sanh sáng ngời rực rỡ — những đền đài bằng bạc và cây cối bằng bảo ngọc chiếu lòa của các vị Trời Dục Giới được trình bày ở phần dưới. Bức họa của Tây Tạng vẽ nhiều chi tiết hơn về thế gian vô cùng đẹp đẽ này, trong ấy cũng có một loại tình dục tế nhị. Đã đặt nền tảng của cuộc sống trên nhục dục ngũ trần như thế gian loài người, các vị Trời Dục ấy phải trả cái giá của nó – đó là sự xung đột. Luôn luôn có tranh chấp, những trận chiến lập đi lập lại, với hàng Asura (A Tu La), những chúng sanh chống đối chư Thiên, những chúng sanh trước kia cũng ở cảnh Trời nhưng vì bản tánh gây gổ phải bị rơi xuống và bây giờ, bị lòng ganh tỵ thúc đẩy, cố gắng quày trở lên xâm chiếm cảnh này. Trong bức họa của tôi (Đại Đức tác giả) hạng chúng sanh này chiếm một phần cảnh giới chư Thiên, mặc quân phục và trang bị bằng cả khí giới cũ lẫn khí giới mới. Nhưng không phải họ chỉ gây chiến với chư Thiên không mà còn đánh lẫn nhau nữa. Do đó cũng có sự bất phục tùng giữa họ với nhau được diễn tả. Theo bức họa Tây Tạng, sau khi bị chư Thiên, dẫn đầu là Vua Trời Đế Thích bên cạnh một thớt voi, đánh đuổi chạy, họ sống trong một thế gian riêng biệt. Hạng chúng sanh này chỉ biết có sức mạnh mà thôi, vì lẽ ấy có hình Đức Phật xuất hiện ở cảnh giới này cầm trên tay một cây gươm để thị oai và như vậy, sau đó chúng có thể đến nghe Pháp. Ngược lại, hình ảnh của Đức Phật ở cảnh chư Thiên thì được vẽ tay cầm ống sáo. Tiếng nhạc du dương sẽ đưa chư Thiên đến nghe Pháp vì người ta tin rằng chúng sanh ở cảnh này không thích nghe nói chuyện suông!

Phía trên cảnh chiến tranh loạn lạc của những vị Trời Dục Giới có các vị Phạm Thiên của Sắc Giới và Vô Sắc Giới, những vị đang thọ hưởng hạnh phúc của thiền, vô cùng phỉ lạc, hay tâm xả hoàn toàn, vô cùng cao thượng. Bức họa Tây Tạng vẽ vị Phạm Thiên lộng lẫy trong một ngôi đền, bên góc trái. Về cảnh Trời rực rỡ ấy, Ngài Nàgàrjuna (Long Thọ) lưu ý như sau:

“Này Đại Vương, mặc dầu những cảnh Trời ấy
Có những khoái lạc bao la để cho thọ hưởng,
Cảnh tử biệt càng đau khổ.
Hằng suy niệm như thế,
Người cao thượng không mong muốn
Thọ hưởng lạc thú tạm bợ của cảnh Trời.”(L.K. 98)

Và Ngài viết tiếp như sau:

“Người từ cảnh Trời, chết đi
Mà không còn phước báu dự phòng
Phải chịu tái sanh – tùy nghiệp quá khứ —
Vào cảnh thú hay ngạ quỷ
Hoặc nữa, hóa sanh vào địa ngục. ” (L.K. 59)

Những vị Phạm Thiên trong cảnh Vô Sắc Giới có tuổi thọ dài không thể tưởng tượng và sống trong trạng thái Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Vì các Ngài không có hình thể vật chất nên không thể diễn tả. Tuy nhiên, dầu ở trong trạng thái vô phỉ lạc ấy, các Ngài vẫn không trường tồn vĩnh cửu mà cũng phải chết một ngày nào.

Giữa đám người, phần trái và bên trên, trong cả hai bức, trọn tất cả diễn tiến của đời sống được mô tả: sanh (xe đẩy trẻ con), già, bệnh (dấu hiệu bệnh viện), chết (xác chết trong nghĩa địa). Tuy nhiên, trong bối cảnh của tình trạng đau khổ ấy, con người có thể hiểu được Gíao Pháp. Đức Thế Tôn, nhân vật tiến bộ nhất trong đám người, được diễn tả ngồi trên cao, trong một khu rừng, truyền dạy Giáo Pháp cho năm vị đệ tử đầu tiên. Trong bản vẽ nguyên thủy mà tôi theo đúng, Đức Phật chỉ xuất hiện ở cảnh người, chứng tỏ rằng được sanh vào cảnh người là một đại hạnh, đại phúc, vì ở đây có cơ hội thông hiểu Giáo Pháp một cách thâm sâu. Những nguyện vọng đạo đức của con người được tượng trưng bằng một ngôi đền Ấn Độ Giáo, một Thánh Đường Thiên Chúa Giáo, một đền thờ Hồi Giáo, trong lúc ấy cảnh chiến tranh và một quán rượu, hai khuynh hướng của con người thiên về sân và tham. Bức họa Tây Tạng cho thấy nhiều sinh hoạt thường ngày như cày bừa ngoài đồng và nhiều người trèo lên phía trên, nơi ấy có một ngôi chùa mà các người kia cố đến để nghe thuyết Pháp. Ở giữa, Đức Phật đang đứng, tay ôm bình bát, chỉ cho nhân loại con đường thanh bình an lạc dẫn đến trạng thái tịch tịnh châu toàn của Niết Bàn. Trong bức vẽ của tôi (Đại Đức tác gỉa), con đường Giáo Pháp vững chắc ấy được diễn tả từ miệng Đức Phật thốt ra. Trên con đường ấy, một thầy tỳ khưu đưa tay cho người cư sĩ nắm lấy và dẫn dắt người ấy thoát ra khỏi vòng luân hồi bằng Bát Chánh Đạo. Về điểm này, Đức Nàgàrjuna viết:

“Mặc dầu được tái sanh vào cảnh người,
Con người dễ duôi, tự dấn thân vào những con đường bất thiện.
Còn cuồng dại hơn kẻ điên cuồng
Phải ăn những đồ ói mửa, nước tiểu và phẩn
Trong một cái chén bằng vàng có cẩn ngọc ngà châu báu.
Tái sanh vào cảnh người còn khó được hơn.”   (L.K. 60)

Cảnh ngạ quỷ hay peta (phía dưới bên mặt trong bức vẽ của tôi, bên trái trong bức họa Tây Tạng) luôn luôn đói và khát, luôn luôn thèm ăn uống, nhưng đến khi cầm đến thức ăn hay thức uống thì nó trở thành lửa nóng hay vật hôi thúi. Trong cảnh này tôi có vẽ một mặt trăng to lớn và một mặt trời nhỏ bé vì có câu:

“Vì hạng ngạ quỷ thiếu phước, nên đối với họ,
Mặt trăng nóng bức vào mùa Hè.
Vào mùa Đông, mặt trời lại lạnh buốt.
Khi chúng nhìn vào cây thì thấy cây trơ trọi
Và những dòng sông đang trôi chảy
Bỗng dưng khô cạn, khi chúng ghé mắt vào.” (L.K. 95)

Kế đó, trên không trung có một ngạ quỷ đang làm mồi cho đàn chim dày xéo, như Đức Moggallàna (Mục Kiền Liên) đã có lần trông thấy. Một ngạ quỷ khác nằm “nghỉ ngơi” trên tảng đá bên cạnh gốc cây trơ trọi, cảnh tượng mà Đức Thế Tôn thường dùng để diễn đạt tiện nghi đơn độc của cảnh giới này. Trong khi ấy, hai ngạ quỷ khác bị chìm sâu dưới nước, mực nước vừa lóm đóm phía dưới môi. Trong cảnh đói khát vô cùng khắc nghiệt, chúng không làm sao hớp được một ít nước cho đỡ dạ, mặc dầu mực nước đã gần đến môi. Quả thật hình phạt của Tantalus là trạng thái hiển nhiên trong cảnh ngạ quỷ! Tất cả chúng sanh trong cảnh này đều có bụng sình lên binh rỉnh, cổ thật ốm thon và miệng nhỏ như đầu mũi kim. Trong kinh điển Tây Tạng, sự đau khổ của họ được diễn tả còn tệ hại hơn nữa. Chúng phải chịu đói khát cùng cực, nhưng không được chút gì để ăn uống, sự đau khổ của họ càng tăng thêm gấp bội vì các thức ăn uống ấy trở thành những lưỡi gươm dao trong bụng. Đức Phật mang vật thực của chư Thiên xuống cảnh giới “dồi dào đau khổ” để làm dịu bớt tình trạng đói khát cùng cực của chúng sanh ở đấy. Theo lời của Ngài Nàgàrjuna:

“Đức Phật đã có tuyên ngôn về nguyên nhân nào
Đưa chúng sanh vào cảnh giới ngạ quỷ
Để phải chịu đau khổ.
Đó là vì, khi ở cảnh người, người ấy không bao giờ bố thí,
Hoặc có cho ra, cũng cho với tâm bỏn xẻn.
Hành động như thế ấy, người ấy tạo nghiệp phải sanh vào cảnh ngạ quỷ.” (L.K. 97)

Ở cảnh thú, bức họa Tây Tạng vẽ về Đức Phật tay cầm quyển sách, khuyến khích chúng sanh ở đó đi vào Giáo Pháp, chỉ rằng loài thú có rất ít khả năng hiểu biết, và cần trí tuệ. Bức vẽ của tôi diễn đạt cảnh khổ đau của cảnh giới này theo sự mô tả của Ngài Nàgàrjuna:

“Vậy, nếu bạn phải sanh vào cảnh thú
Thì đau khổ quả thật nhiều –
Sát hại, bịnh hoạn, đâm chém., hút lộn lẫn nhau
Lại còn bị trói buộc, đánh đập nữa.
Không có hành động thiện, không có đời sống ôn hòa,
Loài thú sát hại, gây chết chóc lẫn nhau
Mà không ân hận.
Giữa đám thú, có con bị giết để lấy
Trai, ngọc, hay lóng xương,
Có những con khác
Được đánh giá bằng thịt, bằng da của nó,
Những con khác nữa,
Bị cưỡng bách làm công việc của loài người
Dưới lằn roi vọt, gậy gộc hay móc sắt.
Chúng bị đánh đập để làm việc.” (L.K. 89-90)

Trong thế gian của loài thú, thọ cảm thông thường là “đau khổ, nhức nhối, khắc nghiệt”, và tình trạng được diễn tả trong bức vẽ của tôi bằng cảnh tượng “kẻ đi săn và người bị săn”. Chim chóc trên trời bị săn bắn trong lúc con kên kên đang ăn miếng mồi của nó. Con ong đang vùng vẫy trong lưới nhện, tượng trưng kiếp sống khủng khiếp của loài côn trùng. Trong khi ấy, những con thú lớn hơn, trâu thì bị ép buộc phải cày, nai thì làm mồi cho thợ săn, và con sư tử đang ăn một con vật khác làm mồi cho nó. Số phận của loài cá cũng không khá hơn. Cá nhỏ làm mồi cho cá lớn hay bị mắc câu, hoặc bị vướng vào lưới của loài người. Phần bên dưới của cảnh giới này, gần với cảnh địa ngục, có con cắc kè. Bức họa Tây Tạng diễn tả những hình ảnh sống khác nhau của loài thú có vẽ, dưới mặt nước, đền đài của Long Vương, nửa người nửa sấu.

Cảnh địa ngục – dĩ nhiên không phải một trạng thái trường tồn vĩnh cửu – có những khủng khiếp mới của thời hiện đại chúng ta. Những con đường xe lửa chạy thẳng vào một trại tập trung. Và, từ các ống khói của trại tập trung này tủa ra những làn khói đen, vừa ảm đạm thê lương vừa rùng rợn. Trong khi ấy nhân viên của một lực lượng an ninh bí mật, đồng phục chỉnh tề, ép buộc một loại âm hồn của địa ngục trần gian phải nuốt những giọt sắt nấu chảy thành chất lỏng. Dưới mắt nhân viên quan sát, một dòng suối gọi là Vaitaranì đốt cháy tận xương những người đang quây quần lặn hụp trong ác xít pha lẫn máu từ những núi người to tướng, ầm ĩ kêu la. Dầu cảnh đau khổ hành hạ nào mà chúng sanh ở cảnh địa ngục phải chịu, dầu thể xác có bị dày xéo hay tàn phế đến đâu, hay bị nghiền nát cách nào, những chúng sanh ấy còn phải tồn tại lâu dài để nhận lãnh những cảm giác “cực kỳ đau đớn, nhức nhối và khắc khổ”, không giảm dịu, không ngừng nghỉ.

“Cũng như hạnh phúc cao thượng nhất đến với ta
Do sự chấm dứt mọi dục vọng –
Không có hạnh phúc nào cao thượng hơn!
Cùng thế ấy, không có tội khổ nào khủng khiếp
Như cảnh bất hạnh ở địa ngục A Tỳ (Àvici),
Một cảnh khổ liên tục không gián đoạn –
Không có trạng thái đau khổ nào bất hạnh hơn!” (L.K. 85)

Trong bức họa, ở phía trước là cảnh những chúng sanh trước kia phá hoại, làm hư hỏng người trong trắng vô tội. Các chúng sanh này bị mấy con sâu to tướng đục khoét trong khi lặn hụp trong một thứ nước hôi thúi bẩn thỉu. Bên trái là một rừng gươm đao bén nhọn, thay vì cây cối xanh tươi. Chúng sanh ở cảnh này phải leo trèo trên gươm đao ấy và bị cắt đứt, đâm thủng, rất thảm thê. Người ta nói rằng đó là cảnh tượng đặc biệt mà người tà dâm tự tạo cho mình. Những người tạo nghiệp sát hại này hay hành hạ sanh linh thì được thấy bị treo trên cây nọc, trong khi ấy có con chim mỏ cứng như thép đang rỉa ruột gan người trước kia say mê đá gà. Đức Nàgàrjuna cũng có mấy dòng thơ để mô tả cảnh giới thấp nhất và cùng cực nhất này:

“Kẻ sát nhân bị xử phải chịu
Suốt ngày, chỉ trong một ngày thôi,
Ba trăm ngọn gươm đâm xuyên qua mình để đền tội.
Sự đau khổ ấy cũng không sánh được
Với cảnh khổ dễ chịu nhất ở địa ngục.

Cảnh khổ đau ở địa ngục có thể kéo dài
Cả trăm a tăng kỳ.
Không giảm dịu, không gián đoạn, không thể chịu được,
Ngày nào mà quả xấu của hành động ác
Chưa hết nghiệp lực, chưa thể chấm dứt. ” (L.K. 86-87)

Jetsun Milarepa, nhà đại hiền thánh và thi sĩ Tây Tạng, đã nói có cảnh Trời, cảnh địa ngục và các cảnh giới khác, ca hát lên những câu:

“Kẻ sát nhân, lòng đầy tham dục
Chí đến cha mẹ và thầy tổ cũng không tha,
Người cướp bóc kho tàng của Tam Bảo,
Vu oan và phỉ bang vô lối bậc Cao Quý,
Và chỉ trích Giáo Pháp là tà đạo,
Những kẻ tạo nghiệp ác ấy sẽ bị thiêu đốt
Và không dứt phải chịu dày xéo trong địa ngục…”
(8)

Những ai hiện đang xâm phạm dân tộc Tây Tạng và Giáo Pháp của họ có thể ghi nhận điều này!

Bản trình thuật tóm tắt năm cảnh giới tái sanh (pañcagati) có thể kết luận bằng lời kêu gọi:

“Nếu đầu, tóc, hay quần áo của bạn bị lửa bốc cháy
Ắt bạn vội vã dập tắt lửa.
Hãy nhanh chóng dập tắt lửa ái dục
Đang quay tròn bánh xe luân hồi.
Ái dục là nguồn cội của đau khổ,
Không còn cách nào làm hơn! ” (L.K. 104)
[^]

 

 

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app