2. Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni:


Nói gọn hơn cho dễ nhớ là Giới Tỳ Khưu Ni. Tập này trình bày 311 điều học của các tỳ khưu ni được phân chia như sau:
1) 8 Pārājika (bất cộng trụ)
2) 17 Saṅghādisesa (tăng tàng)
3) 30 NissaggiyaPācittiya (ưng xả đối trị)
4) 166 Pācittiya (ưng đối trị)
5) 8 Pāṭidesanīya
(ưng phát lộ)
6) 75 Sekhiya (ưng học)
7) 7 AdhikaraṇasamathāDhammā (các pháp dàn xếp tranh tụng).


Tuy nhiên, chỉ có những điều học quy định riêng cho tỳ khưu ni (asādhāraṇapaññatti) được trình bày trong tập này, còn những điều quy định chung cho tỳ khưu và tỳ khưu ni (sādhāraṇapaññatti) cần phải xem ở Phân Tích Giới Tỳ Khưu. Ngài Buddhaghosa trong Chú Giải Tạng Luật Samantapāsādikā đã giúp chúng ta xác định những điều học chung này, tuy nhiên thứ tự các điều học trong giới bổn đầy đủ của các tỳ khưu ni được trình bày như thế nào không thấy ngài đề cập đến. Giới bổn đầy đủ của tỳ khưu ni được tìm thấy ở các tài liệu Pāli có tên Bhikkhunīpātimokkha, Ubhato-pātimokkha, Dvemātikāpāḷī, còn được lưu trữ ở các nước có Phật giáo là quốc giáo như Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện.


So sánh giới bổn Pātimokkha của tỳ khưu và tỳ khưu ni, có một số vấn đề đáng được lưu ý như sau:


1) Tỳ khưu ni không có phần giới aniyata (bất định). Tỳ khưu và tỳ khưu ni đều có 30 điều nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị), tuy có số lượng giống nhau nhưng một số điều học lại khác nhau, 75 điều sekhiya (ưng học) và 7 pháp dàn xếp tranh tụng hoàn toàn giống nhau.


2) Đức Phật quy định các điều học cho các tỳ khưu ni thông qua các tỳ khưu. Mỗi khi có sự việc sanh khởi, các tỳ khưu ni đã kể lại sự việc cho các tỳ khưu, rồi các tỳ khưu mới trình lên đức Phật. Khi đức Phật quy định điều học, ngài cũng quy định gián tiếp qua các tỳ khưu: “… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này …” Cũng nên lưu ý về thể của động từ sử dụng trong lời nói của đức Phật: Động từ “uddissantu” trong trường hợp của các tỳ khưu ni thuộc mệnh lệnh cách, hàm ý sự chỉ thị, sự ra lệnh, nên được dịch là “hãy,” còn “uddisseyyātha” áp dụng cho các tỳ khưu thuộc giả định cách có ý nghĩa khuyên bảo nhẹ nhàng được dịch là “nên;” chúng tôi chưa tìm ra được lý giải về văn phạm cho điểm này, cũng có thể lối nói gián tiếp hay trực tiếp là lý do của sự khác biệt này. Và trong các câu chuyện ở Tạng Luật, dường như chỉ có bà Mahāpajāpati Gotamī là chủ động thưa chuyện cùng đức Phật, còn các tỳ khưu ni chỉ lắng nghe và trả lời mỗi khi đức Phật hỏi đến.


3) Các tỳ khưu ni khi đến với đức Phật đều đứng cho dù nghe Pháp. Điều này được ghi nhận ở các đoạn văn “… rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng ở một bên…” Và khi từ giã đức Phật, chỉ có phần mô tả việc các tỳ khưu ni đảnh lễ đức Phật, hướng vai phải nhiễu quanh và ra đi, không có đoạn “… từ chỗ ngồi đứng dậy…” Riêng đối với các tỳ khưu, vị tỳ khưu ni cần phải xin phép khi ngồi xuống ở phía trước (pācittiya điều 94).


4) Tội quy định cho tỳ khưu thường được giảm nhẹ so với các tỳ khưu ni trong khi cả hai đều thực hiện hành động phạm tội giống nhau. Ví dụ như việc che giấu tội pārājika của vị khác, tỳ khưu phạm pācittiya (ưng đối trị) điều 64, tỳ khưu ni lại phạm pārājika (bất cộng trụ) điều 2, hoặc vị xu hướng theo tà kiến và vẫn không dứt bỏ sau khi được nhắc nhở, tỳ khưu phạm pācittiya (ưng đối trị) điều 68, còn tỳ khưu ni phạm pārājika (bất cộng trụ) điều 3, v.v…


5) Tuy nhiên, tỳ khưu ni cũng được 2 điều giảm nhẹ là chỉ hầu cận ni sư tế độ 2 năm, trong khi tỳ khưu tối thiểu phải 5 năm hoặc hơn, và tỳ khưu ni không phải hành parivāsa khi phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng), bù lại, phải thực hành mānatta nửa tháng ở cả hai hội chúng (trong khi đó tỳ khưu phải hành parivāsa tùy theo số ngày che giấu và chỉ 6 đêmmānatta).


6) Vấn đề xuất gia cho người nữ có phần phức tạp hơn, ví dụ như ni sư tế độ phải 12 năm thâm niên (so với tỳ khưu chỉ 10 năm) và không thể tiếp độ hàng năm (pācittiya điều 82), điều này không thấy quy định cho tỳ khưu. Sau khi cho tu lên bậc trên xong, cần phải di chuyển vị tân tỳ khưu ni đi xa, để tránh trường hợp người chồng bắt lại (pācittiya điều 70).


7) Về phần giới tử ni muốn tu lên bậc trên, phải có sự cho phép của cha mẹ và người chồng (đã xuất giá vẫn còn lệ thuộc vào cha mẹ), phải tròn đủ hai mươi tuổi, đã thực hành sáu pháp trong hai năm, và sự truyền pháp tu lên bậc trên cần được tiến hành lần lượt ở cả hai hội chúng.


8) Xã hội Ấn Độ thời đó có vẻ rất nguy hiểm đối với nữ giới qua những sự việc bất trắc xảy ra cho các tỳ khưu ni đi riêng lẻ hay nhóm.


9) Vấn đề thâu hồi Kaṭhina lại được tìm thấy ở bộ Luật này (pācittiya điều 30, [253]), thay vì được kết tập ở chương Kaṭhina (Đại Phẩm, chương VII).


Nếu xem xét kỹ lưỡng hai bộ Luật của tỳ khưu và tỳ khưu ni, chúng ta có thể tìm ra những sự khác biệt về tâm lý giữa hai giới tính đã được đức Phật nghiệm ra bằng sự tu chứng và giác ngộ của bản thân, trong khi hiện nay, môn Tâm Lý Học phải tốn nhiều công sức với các sự nghiên cứu để tìm ra nguyên lý và áp dụng vào thực tế. Chúng tôi nghĩ rằng còn nhiều vấn đề lý thú khác mà bản thân chúng tôi đã bỏ sót hay không đủ khả năng để phát hiện.

 

 

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app