KỆ NGÔN V

HẠNH PHÚC XV

Dānaṃ: Nết hạnh bố thí

 Phạn ngữ dāna – Tàu âm là đàn-na – nghĩa là bố thí (hay thí chủ) là dâng cúng cơm nước, quần áo, chỗ ở, thuốc chữa bệnh đến chư tăng hay cứu tế đến người nghèo đói, bất hạnh.

Đàn-na và bố thí hàm ý cắt đứt sự bỏn xẻn, đánh đuổi sự rít róng và cắt đứt sự tham lam ở trong lòng.

Đàn-na và bố thí còn hàm ý gìn giữ; nghĩa là tâm bố thí có công năng gìn giữ người thí chủ không cho ở trong ác pháp là tham lam, bỏn xẻn; lại còn nâng đỡ người bố thí không cho sanh vào khổ cảnh…

Cuối cùng, theo cách hiểu thông thường, đàn-na bố thí có nghĩa là đem của cải, bạc tiền dư thừa của mình đem cho người khác, hiến tặng cho người khác.

Nói đến sự bố thí hình như là ít có người hưởng ứng, đồng tình – vì người ta quan niệm thông thường rằng, con người sanh ra là để thâu vào chứ không phải là để phát ra. Và trong thực tế ai ai cũng đều ưa thâu hơn phát, ưa nhận hơn cho! Thậm chí đến khi thấy người quanh mình đang bị đói khổ thiếu thốn, những người đang bị tai nạn như cháy nhà hay bão lụt, nhà cửa không, cơm không, y phục cũng thiếu; tuy họ dư ăn dư để, nhưng có bao giờ họ tự động đem của ra cho ai đâu. Người mà được nghe tiếng bố thí nhiều nhứt là tín đồ Phật giáo, vì tiếng bố thí là tiếng đầu tiên mà người Phật tử nghe và biết. Như vậy, nết hạnh bố thí là nết hạnh phải học trước nhất trong Phật giáo, mà bố thí cũng là một pháp ba-la-mật đứng đầu trong 30 pháp ba-la-mật.

Người đời rất ưa sự tiến bộ về vật chất, nhưng người ta không nghĩ tới tinh thần. Ý tôi muốn nói, sự tiến hóa về vật chất là giàu sang, nhà cao, cửa rộng… Còn sự tiến hóa về tinh thần lại thuộc về phương diện đạo đức, tâm linh.

Nếu người đời chỉ biết đi tìm lấy một mục đích duy nhất là giàu sang, tiện nghi sung mãn… thì càng ngày thế gian nầy càng nhiều đau khổ – vì ai ai cũng tranh nhau để làm giàu không nghĩ đến người khác, không biết giúp đỡ kẻ đói nghèo, người hoạn nạn.

Còn người tiến hóa về tinh thần thì lại khác, họ lo cho bản thân mình vừa đủ, rồi còn lo giúp đỡ, san sẻ cho thân bằng quyến thuộc, mọi người xung quanh, thôn lân, xã hội – tùy

khả năng và hoàn cảnh. Đấy gọi là bố thí. Ai ai cũng có thể bố thí được tùy trường hợp, tùy lúc và tùy khi.

Đức Phật dạy pháp bố thí là đem cho đi những cái dư dả của mình, tùy theo mình có, cho người khác do mọi người xung quanh đang thiếu hụt, đang cần sự tương trợ cùng tấm lòng bi mẫn của ta. Bố thí là nguyên nhân đánh đuổi sự bỏn xẻn và dứt bỏ được lòng tham lam, làm cho tâm mình trở nên cao thượng, quý báu. Tâm con người không có được sự cao quý ấy – nên khiến cho phiền não phát sanh – tức là bị tam độc là tham lam, sân hận và si mê hoành hành, công phá. Đức Phật dạy tâm của chúng ta ví như con rắn. Loài rắn thích ở nơi ẩm thấp. Tâm cũng vậy, nó thích ở nơi thấp hèn là tối tăm, phiền não. Vì có phiền não nên tâm ta bị chìm đắm trong tài, sắc, lợi, danh. Chính tâm tham lam, luôn luôn muốn thu góp lợi tức về mình cho thật nhiều đặng mua lấy những gì mà nó thích – còn ai chết mặc ai. Vì tâm ích kỷ dục lợi nên không đem hạnh phúc lâu dài lại cho ta, có được chăng chỉ tạm bợ, nhất thời thôi. Vì muốn chúng sanh làm cho tâm mình trở nên cao thượng, quý báu, bước ra khỏi nơi ẩm thấp, tối tăm là bỏn xẻn, tham lam và ích kỷ ấy – nên đức Phật dạy ta bố thí. Bố thí là pháp đối trị của bỏn xẻn, tham lam, dục lợi ích kỷ.

+ Bố thí có hai cách, có hai ý nghĩa khác nhau:

– Cho để làm ơn

– Cho có ý làm phước, để dứt lòng tham lam, trừ bỏn xẻn và ngăn ngừa sự ích kỷ dục lợi. Đây thật là bồi bổ đức từ bi.

Người đời thường hiểu lầm rằng, cho là làm ơn, là làm phước.

Trong Phật giáo có dạy bố thí và làm ơn khác nhau. Người cho – với nghĩa làm ơn – thì muốn người thọ lãnh biết đến mình, và muốn người thọ lãnh luôn luôn nhớ lấy của cho ấy, tiếng phạn gọi là saṅgaha nghĩa là giúp đỡ, tiếp độ. Còn người bố thí (đàn-na) thì trong mỗi việc cho đi hoặc san sẻ nào cũng đều có tác ý là thương xót người mà mình cho đó (đó là tâm bi)và quyết định diệt lòng tham lam, bỏn xẻn trừ cả lòng ích kỷ của mình nữa.

Chúng ta – những người Phật tử học hạnh bố thí – cho ai một vật gì không muốn cho họ nhớ ơn và đền ơn mình, để tránh nguyên nhân sanh thêm phiền não. Bố thí với mục đích cố dứt bỏ phiền não ở trong lòng mình mới là quý báu, mới là cao thượng vậy.

Người làm phước nên làm bằng tác ý lành, cố tránh phiền não, và nên để lòng yêu thương người bị hoạn nạn như mình yêu thương bản thân mình hay là yêu thương con đẻ của mình – lại là thuộc tính của tâm từ. Làm như vậy mới là bố thí. Làm như vậy là ta bồi bổ thêm tâm lành của ta (cả bi và từ), diệt phiền não, bỏn xẻn, ích kỷ. Đó mới là tu, nghĩa là sửa chữa lòng mình, làm cho không còn phiền não nữa.

+ Sự bố thí hợp pháp, chơn chánh, theo Phật giáo, có 3 điều kiện là:

  1. Vật bố thí trong sạch: Đồ vật đem ra bố thí ấy do nơi sự làm ăn chơn chánh mà có, nghĩa là của ấy do nơi chánh mạng tạo ra, không do sự trộm cướp hay lường gạt của người đem về làm của mình. Vả lại, không bao giờ đức Phật dạy phải bố thí nhiều hay bố thí ít, chỉ cần của ấy là của hợp pháp thôi.
  2. Tác ý trong sạch: Người cho vì lòng từ ái [1] mà cho, chớ không phải cho để mong được một lợi ích nào khác, chẳng hạn như bố thí để được sanh về cõi trời hay cõi nào [2] . Hầu vun trồng tác ý cao thượng ấy, đức Phật dạy nên bố thí với tâm xả ly để diệt từ tham lam, bỏn xẻn, ích kỷ trong tâm của mình là tốt nhất, là quý nhất vậy.
  3. Người thọ lãnh trong sạch: Người thọ lãnh là người có giới đức trong sạch đáng thọ lãnh của bố thí.

Nhiều người bị tánh bỏn xẻn chi phối, khi có tiền của dư dả mà thấy người nghèo khổ, hoạn nạn – họ làm lơ đi, ngoảnh mặt đi, không giúp đỡ. Với hạng người nầy thì càng được của cải bao nhiêu, càng bỏn xẻn bấy nhiêu; và vì lẽ ấy mà họ không khi nào an vui, thanh thản được, trái lại, lúc nào cũng lo âu, sợ hãi, toan tính, bận rộn, sầu não! Đành rằng bỏn xẻn ấy không hại ai, nhưng tâm bỏn xẻn không gọi là thiện được. Tuy nhiên, có những người ở đời, có tâm địa bỏn xẻn, thường tự biện minh rằng, tôi không làm gì nên tội hết! Trong thực tế, sở dĩ hạng người ấy không làm tội, có thể là do họ sợ pháp luật của chánh phủ; cũng có thể vì danh dự bản thân và gia đình. Lý suy, do trường hợp thuận tiện chưa đến, bởi nếu có dịp, chưa chắc họ không nhân cơ hội làm liền. Riêng người tu là người có phát nguyện xa tội ác, vì ghê sợ và hổ thẹn tội ác, nên không dám làm tội, mặc dầu là có làm, cũng không ai biết. Hơn nữa người tu càng cố gắng giữ lấy đức hạnh của mình, như là lo cho đời sống của mình vậy.

Đức Phật dạy: Tiền tài là món thuốc độc dành cho người kém trí tuệ, trái lại, là món thuốc bổ cho bậc trí thức.

Thật vậy người kém trí tuệ mê theo tiền tài, không hề làm một việc lành nào mặc dù rất nhỏ, lại còn hay lường gạt cướp bóc của người đem về cho mình, để rồi, chừng sắp chết họ mới tiếc nuối của cải phải bị bỏ lại dương trần, cứ muốn gìn giữ, gần gũi của cải ấy mãi. Tiếc của như vậy thật là nguy hại vô cùng – như sự tích sau đây:

“- Tại kinh đô Sāvatthī có một ông trưởng giả rất là ích kỷ, không bao giờ bố thí một đồng điếu cho người ăn xin. Người trong thành đặt tên ông là Micchāriya (bỏn xẻn). Ông có chôn rất nhiều khạp vàng. Khi sắp chết, sực nhớ lại số vàng ấy, mà ông không có dịp tỏ cho người nhà hay. Vì luyến tiếc vàng, nên ông lại sanh làm chó trong gia đình của ông. Khi chó ấy lớn lên, nó rất khôn và giữ của rất giỏi nên con ông lấy làm thương mến.

Ngày nọ, đức Thế Tôn đi khất thực ngang qua nhà con ông trưởng giả, con chó chạy ra sủa. Đức Thế Tôn với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, biết rõ kiếp quá khứ của chó nên mới nói rằng: “Trưởng giả Micchāriya! Ông vì quá keo kiệt, bỏn xẻn; khi chết rồi còn muốn ôm ấp mấy cái khạp vàng, nên đã sanh làm con chó giữ của, ông có biết thế không?”Oai lực của đức Thế Tôn làm cho chó nhớ lại tiền kiếp, lấy làm buồn rầu và trở về nhà nằm.

Khi con ông trưởng giả đi công việc về, không thấy chó chạy ra mừng như mọi khi, mới hỏi gia nhân tại sao con chó đổi tính như vậy.

Người nhà cho hay, khi nãy thầy Cồ Đàm đi ngang qua đây, không biết có nói gì mà con chó có vẻ buồn, đang nằm dưới gậm giường!

Con ông trưởng giả lấy làm tức giận, lập tức vào hỏi đức Thế Tôn. Nhân dịp này, ngài mới đến nhà, bảo ông trưởng giả cho đào đất tại chỗ con chó thường nằm thì tìm được mấy khạp vàng. Sau đó, đức Phật giáo giới đến mọi người, phải biết mở rộng tấm lòng, diệt trừ keo kiệt, bỏn xẻn. Hãy lấy chuyện con chó mà làm gương”.

Tích nầy cho thấy rằng: Lòng bỏn xẻn, sự tham lam và tâm quyến luyến của cải có hại như thế. Vậy các bậc trí thức nên dùng của cải làm việc từ thiện: Bố thí là gởi của về ngày vị lai. Người bỏn xẻn trong kiếp nầy tuy là dư ăn dư để, nhưng kiếp sau họ sẽ trơ trọi nghèo nàn. Tại sao vậy? Vì người bỏn xẻn không kết trước duyên lành với kẻ khác, không có lòng từ ái thương hại kẻ khác đang chịu thiếu thốn, bần hàn, cực khổ; vì quả của bỏn xẻn ấy, kiếp sau nghèo khó, bần hàn, thiếu hụt mọi bề, không ai giúp đỡ cho lúc cơ nhỡ, hoạn nạn.

Sau đây là một sự tích bố thí:

“- Đời đức Phật Ca-diếp, có một thanh niên xuất gia mà hằng ngày về thọ thực ở nhà cha mẹ. Ngày nọ, sau khi thọ thực xong, ra về đến gần chùa, chàng trông thấy một con chó cái mù cả hai mắt với một bầy con ốm đói vì thiếu ăn; chúng đang day day những bầu vú héo khô như tấm giẻ rách! Tình cảnh  thật là bi đát. Thấy vậy, lòng thương hại (tâm bi mẫn) phát sanh, nhưng chàng không biết lấy gì cho chó ăn. Bỗng sực nhớ lại mình vừa thọ thực xong, chàng liền dùng tay móc cổ  ói vật thực ra cho bầy chó ấy ăn. Nhờ bữa ăn ấy chó mới đủ sức khỏe đi ở nơi khác.

Sau khi chết, chàng thanh niên ấy được sanh thiên, hưởng sự an lạc trong các cõi trời từ thời đức Phật Ca-diếp tới đời đức Phật Thích-ca; chàng lại sanh vào một gia đình Phật tử, có đức tin trong sạch và xuất gia theo giáo pháp của đức Thế Tôn. Nhờ phước báu bố thí từ kiếp trước còn dư sót, nên người trong thành rất trong sạch với chàng, bố thí cho rất nhiều vật thực, đến đỗi dùng không hết”.

Theo câu chuyện trên đây – rõ ràng là của bố thí không cần phải là bạc nén, vàng thoi hay là cao lương, mỹ vị, chỉ cốt ở tấm lòng từ ái hay bi mẫn của mình. Nếu quý vị không muốn gặp những cảnh tượng hãi hùng như nhà cháy, bão lụt… thì nên làm việc phước thiện cho những nạn nhơn thiên tai, hỏa hoạn. Đức Phật dạy: Hễ bố thí vật vừa lòng thì hằng được vật vừa lòng. Nhân nào quả nấy. Khi ta giúp người qua khỏi cơn tai nạn, thì ta lại được phước và sẽ khỏi bị tai nạn.

+ Bố thí chia ra làm hai loại là:

  1. Amissadāna: Tài thí là bố thí cơm nước, y phục, thuốc uống và chỗ ở.
  2. Dhammadāna: Pháp thí, bố thí pháp

Đức Phật có dạy: “Sabbadānaṃ dhammadānaṃ jināti”Nghĩa là trong các sự bố thí chỉ có bố thí pháp là cao thượng hơn hết. Vì người bố thí pháp gọi là bố thí thiên đàng, phạm thiên và Niết-bàn.

Người bố thí tứ vật dụng là cơm nước, y phục, thuốc men, nhà ở, làm cho người thọ lãnh được sự an vui cấp thời về vật chất thôi. Còn bố thí pháp có thể làm cho người rất hung dữ trở nên lương thiện; chớ ta không thể đem tiền của thuê người ác trở nên thiện được. Vì vậy, bố thí pháp có phước vô lượng vô biên. Đức Phật có đưa ra ví dụ: Có người nào giàu có vô cùng tận, mời thỉnh chư Chánh Đẳng Giác, Độc Giác và chư thánh Tăng ngồi chật quả địa cầu nầy, rồi bố thí tứ vật dụng; đoạn, các ngài cầu chúc cho. Người nầy được phước không sao tả được, nhưng phước ấy không bằng một phần mười sáu phước của một vị pháp sư thuyết chỉ một nửa câu kệ ngôn thôi.

Nếu có người hỏi: Vậy thì chỉ có các vị pháp sư mới bố thí được pháp thôi, còn chúng tôi là cư sĩ thì làm sao bố thí được? Thật ra, ai cũng có thể bố thí pháp được bằng cách thỉnh chư pháp sư về nhà thuyết pháp cho bạn đồng đạo đến nghe, hay là hùn tiền để ấn tống kinh sách. Điều hay hơn hết là quý vị nhờ một vị sư nào dịch kinh hoặc viết sách Phật rồi quý vị ấn tống. Đây thật là phước cao thượng.

+ Hạnh bố thí đem đến những điều hạnh phúc sau đây:

  1. Bố thí là nhân của tất cả sự an vui.
  2. Bố thí là nguồn gốc của mọi tư hữu của cải.
  3. Bố thí là kho chứa tài sản.
  4. Bố thí là thành trì kiên cố để che chở mọi tai nạn hiểm nghèo cho thí chủ.
  5. Bố thí là vật nương nhờ của ta trong ngày vị lai.
  6. Bố thí ví như hang sư tử cư ngụ, tất cả các giống thú không bao giờ dám bén mảng đến gần hang ấy (Ý nói những hạng người tiểu nhân, xấu xa, độc ác sẽ sợ hãi không dám đến gần).
  7. Bố thí ví như mặt địa cầu; địa cầu là nơi nương nhờ của nhân loại (Ý nói là nơi nương nhờ của những hạt giống lành).
  8. Bố thí ví như sợi dây để buộc tâm con người không cho phóng túng chạy theo tội ác.
  9. Bố thí ví như ghe thuyền có khả năng đưa người qua sông biển và luân hồi.
  10. Bố thí ví như người chiến sĩ can đảm xông pha trong trận giặc phiền não.
  11. Bố thí ví như hoa sen sanh trong bùn, nhưng không hôi tanh mùi bùn.
  12. Bố thí ví như lửa thiêu đốt các ác pháp là tham lam, bỏn xẻn, ích kỷ, dục lợi.
  13. Bố thí ví như rắn độc cắn chết các ác pháp.
  14. Bố thí ví như tượng vương, vì tượng vương là thú có sức mạnh hơn hết, bố thí cũng có sức mạnh thắng các ác pháp.
  15. Bố thí ví như thiên lý mã, có sức chạy rất mau, chạy khỏi phiền não là tham lam… và chạy tới Niết-bàn.
  16. Bố thí là con đường đi của các bậc thánh nhơn nhứt là đức Phật.
  17. Bố thí là một hạnh của chư Phật.
  18. Bố thí kết quả cho người không thiếu thốn khi còn luân hồi trong tam giới.
  19. Bố thí cho sanh làm trời Đế Thích.
  20. Bố thí cho sanh vào cõi Tha hóa tự tại.
  21. Bố thí được sanh làm vua Chuyển luân vương.
  22. Bố thí làm cho đắc quả Thinh Văn.
  23. Bố thí là cho đắc quả Độc Giác.
  24. Bố thí làm cho đắc quả Vô thượng Chánh Đẳng Giác.

 

HẠNH PHÚC XVI

Dhammacariyā: Hành theo pháp.

Dhammacariyā nghĩa là hành theo pháp. Người hành theo pháp là người được hạnh phúc, làm cho người tiến hóa trên đường đời cũng như trên đường đạo. Chúng ta nên thực hiện như thế nào để được gọi là hành theo pháp?

+ Đây xin chia ra làm ba phần:

  1. Pháp là gì?
  2. Phương pháp hành theo pháp?
  3. Khi thực hành theo pháp thì được những hạnh phúc gì?

Trong hạnh phúc thứ XVI nầy chỗ trọng yếu là pháp và phương pháp hành theo pháp, hành đúng pháp. Trước hết chúng ta nên biết pháp là gì đã? Nếu hỏi thế, thật khó đáp cho trúng trong mấy câu ngắn. Nhưng có thể nói rằng: Pháp là thiện ác, không thiện, không ác; là sắc thinh, hương, vị, xúc, sắc, thọ… Có người lại nói pháp là vật vô hình khó hiểu, cần phải hiểu bằng trí tuệ.

+ Tôi xin giải tóm tắt:

  1. Một hành động đúng, tốt gọi là lành hay thiện – đức Phật gọi là thiện pháp.
  2. Một hành động sai, xấu làm hại kẻ khác, làm cho người hay thú đau khổ, gọi là làm ác – đức Phật gọi là ác pháp.

Giảng tóm tắt như vậy thì có vị muốn hỏi: Nếu pháp mà giải dễ hiểu như thế, thì cần gì đức Thế Tôn phải dạy tám muôn bốn ngàn pháp môn? [3]

Hỏi như thế thật là chí lý, nhưng tôi lược giải như trên là tôi muốn nói cái ý nghĩa cốt yếu của pháp, chớ chưa phải là pháp môn đức Thế Tôn có 10 hồng danh [4] mà chư thiên, phạm thiên ca tụng. Trong 10 hồng danh ấy có 02 hồng danh có nghĩa từa tựa nhau là Buddho: Phật,Bhagavā: Thế Tôn.

Phật có nghĩa là hiểu thông các pháp và phân biệt được ác hay thiện, và người hành theo pháp nào được an vui, pháp nào đưa khổ đến. Còn Thế Tôn có nghĩa là chia ý, vì tiếng phạn bhagavā nghĩa là chia từng phần [5]; đức Thế Tôn chia pháp môn ra từng phần để dễ hóa độ chúng sanh, vì chúng sanh có cơ duyên không giống nhau.

Còn một vấn đề rất khó là phải chọn lấy một con đường chân chánh để hành theo và chọn lấy pháp nào làm tiêu chuẩn để hành theo?

Muốn cho quý vị dễ hiểu, tôi xin đem pháp tiêu chuẩn mà đức Phật đã dạy để quý vị quan sát hành theo thiện pháp.

Đức Thế Tôn có dạy ba điều để người làm tiêu chuẩn, như cây thước để đo biết pháp nào ác, pháp nào thiện. Ba pháp ấy gọi là adhipati xin tạm dịch là chủ quyền [6]:

  1. Attādhipateyya: Theo ý mình
  2. Lokādhipatayya: Theo ý người đời
  3. Dhammādhipatayya: Theo pháp

Ba điều Phật dạy trên có thể đem so sánh với những điều thường có ở đời. Theo ý mình, có thể sánh với chính sách độc đoán chuyên chế. Theo ý người, có thể sánh với chính sách dân chủ. Còn theo pháp, thì ở ngoài hai chính sách trên, vì theo pháp là nguyên nhân xuất thế gian, nghĩa là giải thoát khỏi các sự ràng buộc trong đời, xa lìa phiền não. Người hành theo pháp, thì không còn độc tài hay dân chủ. Tôi xin giải ba điều ấy.

Theo ý ta

Người theo ý của chính mình là người có tánh độc đoán, độc quyền, không chịu nghe lời ai khuyên bảo. Những người làm theo ý mình một cách độc đoán, độc quyền như vậy thường hay đi tới chỗ tai hại, và ít nhứt là cũng sai lầm.

Nếu trong xã hội mỗi người theo ý của riêng mình, thì xã hội không còn là một xã hội thuần túy an vui, vì quyền lợi của cá nhân nầy sẽ phản trái với quyền lợi của cá nhân khác và sinh ra xung đột vô tận. Tinh thần độc đoán của người này không dung nạp được tinh thần độc đoán của người kia và tự do cá nhân không có luật lệ kềm hãm, sẽ gây hỗn loạn.

Người độc đoán không làm gì nên việc, chỉ làm hại cho mình và bạn mình thôi. Gia đình nào có người chồng hay cha, hoặc vợ con như thế thật khổ cho gia đình ấy.

Làm theo ý người đời

Làm theo ý người đời, ít khi có lợi lạc, mà nhiều khi tai hại. Lợi là khi nào ý của người đời hiệp theo lẽ phải, thiên về đạo đức. Bằng trái lại, tai hại cho mình và cho cả người đời. Theo ý người đời một cách mù quáng thì chắc chắn tai hại, theo ý người đời một cách sáng suốt sao cho dung hòa được quyền lợi chung, thì mới lợi lạc. Chế độ dân chủ chơn chánh có thể tốt đẹp – khi chế độ ấy được xây dựng theo ý kiến của người đời, và có khuynh hướng, nội dung mưu đồ lợi lạc cho quảng đại quần chúng.

Đức Phật thiên về ý kiến phần đông, nên ngài dạy chư tăng nên hội họp lại làm tăng sự và hội họp lại để giải quyết những chuyện xảy ra trong tăng chúng, vì với một số ít người sẽ không giải quyết xong.

Đức Phật có giáo giới rằng, nơi hội họp nào không có bậc tri thức đều trở thành vô dụng. Chung quy lại, sự lấy theo ý kiến của phần đông cũng tùy trường hợp của nhóm người cho ý kiến, ngoài ra ta còn cần phải có trí tuệ để suy xét chu đáo, cẩn trọng xem thử có thật sự lợi lạc cho phần đông hay không.

Theo pháp

Trong đoạn trước tôi đã nói: Pháp là một cái cân hay là sự công bình, chỉ biết lẽ phải; và pháp là nguyên nhân của chánh lý, xét về mặt đời. Theo pháp có thể nói là theo lẽ phải, theo chánh nghĩa, theo luật công bình.

Về quan điểm của Phật giáo, theo pháp là sửa chữa bản thân mình cho tốt hơn, thường là thọ trì ngũ giới hay bát quan trai giới, đi chùa nghe pháp, tụng kinh, niệm Phật; và nếu có thể, xuất gia làm sa-di hay tỳ-khưu để gieo duyên, hy vọng sau này được thành tựu chánh trí, giải thoát.

+ Hành theo pháp Phật có thể chia ra làm 3 hạng:

  1. Pathamacariyā: Hành theo bậc sơ cấp, là thọ ngũ giới, hay bát quan trai giới, giữ thập thiện, lễ Phật mỗi ngày, vào chùa học giáo pháp.
  2. Majjhimacariyā: Hành theo bậc trung, là học tham thiền theo phương pháp chỉ tịnh.
  3. Uttamacariyā: Hành theo bậc thượng, là học tham thiền theo phương pháp minh sát tuệ [7].

+ Hành theo bậc sơ cấp là dạy thân:

  1. Thân không sát sanh: Giới sát sanh của Phật dạy là không giết con vật nào có sự sống, bỏ cả khí giới trong tay; nghĩa là không bao giờ trên tay cầm khí giới, phải biết hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi – như người kinh sợ rắn độc vậy. Ngoài ra, còn phải hết lòng từ ái giúp đỡ mọi người xung quanh mình nữa.
  2. Không trộm cắp: Không lấy cắp bất kỳ vật gì của ai, dầu là cây kim, ngọn cỏ. Đây là nhằm ngăn chận lòng tham lam.
  3. Không tà dâm: Tức là tránh xa hai mươi hạng người nữ như đã có giải trong hạnh phúc IX.Đây là nhân chận đứng lòng dâm dục.

+ Hành theo bậc sơ cấp về khẩu:

  1. Không nói dối: Người không nói dối, đứng trong trường hợp nào, hoàn cảnh nào cũng giữ được phong độ của người chân thật, thà chết chớ không bao giờ nói dối, mặc dầu người ta có cho gì cũng không màng.
  2. Không nói đâm thọc: Nghĩa là không thiên về một bên nào đó, không đem chuyện mình đã nghe mà thuật lại, rồi thêm thắt cho người thứ nhì nghe, cố ý ly gián hoặc làm cho hai bên hiểu lầm nhau.
  3. Không nói lời hung ác: Nghĩa là một tiếng gì xấu cũng không nói, mặc dầu có một nhóm người thích nói. Quan trọng của giới này là đừng nói lời cay chua, độc địa làm người khác phải khó chịu, đau lòng.
  4. Không nói lời vô ích: Là lời nói không đem lợi ích lại cho mình và người bên mình – có tính chất rỗng không, phù phiếm.

+ Hành theo bậc sơ cấp là giữ gìn tâm ý:

  1. Không tham lam: Nghĩa là không bao giờ nghĩ tới tài sản của người khác cho là đẹp, là quý rồi muốn đem về cho mình. Người tu hành chân chánh, mặc dầu còn nhiều mơ ước,  nhiều sở thích cũng ráng đánh đuổi tâm tham ra khỏi lòng mình.
  2. Không sân hận để làm hại kẻ khác: Nghĩa là không cột oan trái, oán thù; dầu chỉ mới khởi tâm nghĩ đến oan trái, oán thù cũng ráng diệt bỏ.
  3. Không tà kiến: Nghĩa là không nghĩ sai lầm, xấu quấy – rồi còn chấp kiến, cho rằng là đúng, là tốt nữa. Người tà kiến không tin nhân quả, tội phước, thiện ác, đời này, đời kia, thiên đàng, địa ngục, luân hồi tử sanh…

+ Hành theo pháp có được những hạnh phúc:

  1. Đại phước.
  2. Không dễ duôi.
  3. Hành theo chánh pháp.
  4. Làm cho Phật giáo được thịnh hành.
  5. Được an vui trong đời nầy và vị lai.
  6. Không bị khiếp sợ, kinh sợ và không cột oan trái, oán thù với mọi người.
  7. Không làm cho chúng sanh khác kinh hãi, khiếp sợ.
  8. Đi theo con đường của các bậc trí thức.
  9. Xa kẻ thù bên ngoài là người ác, và kẻ thù bên trong là phiền não.
  10. Tự tạo ra thiên đàng và Niết-bàn cho mình.

+ Đây xin nhắc lại một tích để quý vị dễ nhận thức:

“- Khi đại đức Millaka chưa xuất gia, ông là một người thợ săn rất giỏi, mỗi ngày giết rất nhiều thú. Ngày nọ ăn cơm xong không có nước uống, ông mới đi tới tư thất của một vị đại đức ở trong rừng tìm nước uống. Khi dở nắp hũ nước ra  thấy không có nước, ông ta nổi giận nói: “Thầy tỳ-khưu ăn cơm của tín đồ xong, lo tìm chỗ ngủ, nước để uống mà cũng không có một nhiểu để làm thuốc, thật là tệ”.

Vị đại đức nghe vậy, lấy làm lạ, nghĩ rằng: “Ta đã múc nước đầy rồi, tại sao người nầy lại nói không có?!” Ngài đến chỗ hủ nước xem coi, thấy nước vẫn còn đầy, mới lấy gáo múc cho ông thợ săn. Ông ta uống no nê. Khi uống xong ông ta suy nghĩ: “Kiếp sau của ta sẽ ra sao kìa? Ta làm nhiều tội lỗi đến đỗi hũ nước đầy mà ta cũng không trông thấy”.

Ông chán vì tội của mình đã làm nên xin xuất gia. Sau khi xuất gia xong, dầu hết sức hành đạo, nhưng ông không bao giờ an trú tâm được. Vì hễ tham thiền thì trông thấy những con thú bị ông giết bằng cách nầy, cách nọ, thật là ghê sợ. Ông cảm thấy ông không thể hành đạo được, mà ở ăn của tín đồ càng thêm tội, nên ông bèn xin với thầy thế độ cho ông được hoàn tục.

Thầy thế độ bèn dùng phương tiện, dạy rằng: “Được, nhưng trước khi hoàn tục, ông vào rừng, mang đến đây một đống cây tươi!” Lúc đại đức Millaka làm xong, ngài dạy tiếp: “Hãy dùng lửa, đốt cháy đống cây ấy giúp ta!”Ông ráng làm nhưng không thể nào đốt cây tươi cháy được.

Thầy thế độ thấy vậy mới nói: “Ngươi để đó cho ta”. Rồi ngài dùng thần thông, lấy một đốm lửa bằng con đom đóm để vào đống cây tươi ấy, trong nháy mắt, nó phựt cháy, cháy xong, đống cây tươi chỉ còn tàn tro mà thôi. Thầy thế độ nói tiếp: “Ta chỉ mượn một tí lửa ở địa ngục mà nó đã có công năng kinh khiếp như vậy đấy! Tội ác giết thú trong quá khứ của ông, hằng trăm địa ngục cũng không chứa chất nổi. Vậy, hoàn tục hay nhất tâm tu hành để thoát khỏi lửa địa ngục đốt cháy là tùy ở ông, quyền tự do chọn lựa của ông vậy!”

Khi vị đại đức sơ tu biết đó là lửa địa ngục, rất lấy làm kinh sợ, không dám hoàn tục nữa, ông quỳ xuống bên chân thầy,  nguyện tu hành kiên trì và tinh tấn hơn nữa!  

Từ ngày ấy, vị đại đức ráng hết sức tu hành không hề xao lãng. Khi nào tham thiền mà buồn ngủ thì ông lấy khăn nhúng nước bịt đầu, còn chơn thì ngâm trong nước.

Ngày nọ, ông đổ nước vào lu xong, còn cái bình nước, ông để trên vế; những giọt nước còn dư, nhễu xuống. Thầy thế độ thấy vậy mới dạy rằng: “Bình nước đã đổ ra hết nhưng vẫn còn nước dư; cũng vậy, lúc hành thiền, tâm yên lặng, những ác pháp, ác niệm tuy tạm thời lắng dứt nhưng đừng tưởng là hết phiền não, chúng sẽ còn rỉ chảy ra đấy! Phải tinh tấn nhiếp niệm, an trú tĩnh chỉ nhiều và sâu hơn thế nữa, sau đó mới thực hành thánh pháp, tuệ minh, đi vào các đạo lộ”.

Thời gian sau, nhờ giới hạnh trong sạch, nhờ tinh tấn kiên trì, vị đại đức đạt được những tầng định thâm sâu; dùng tuệ minh quan sát, thấy được tam tướng, ông đắc A-na-hàm quả”.

Câu chuyện nầy cho quý vị thấy, mặc dầu người đã làm tội nặng, sau biết ăn năn, lo tu hành tinh tấn thì cũng đắc đạo quả – trừ phi người phạm vào ngũ nghịch đại tội thì không thể đắc thiền, đắc quả.

 

HẠNH PHÚC XVII

Ñātisaṅgaho: Giúp đỡ quyến thuộc

Ñāti [8] nghĩa là quyến thuộc, hạnh phúc này xin chia ra làm 3 phần:

  1. Quyến thuộc là gì?
  2. Sự giúp đỡ quyến thuộc như thế nào?
  3. Hạnh phúc sanh lên là do sự giúp đỡ quyến thuộc như thế nào?

(1) Quyến thuộc là gì?

Cha mẹ, vợ, con là ba hạng người thân nhau nhứt và gần nhau hơn hết, nhưng không gọi là quyến thuộc, không thể gọi là bà con được, vì nó có tình nghĩa sâu nặng hơn quyến thuộc. Có một giới hạn riêng về các loại tình cảm này.

+ Quyến thuộc, có thể nói là có hai hạng:

  1. Quyến thuộc là những người cùng một dòng huyết thống, tông tộc.
  2. Quyến thuộc là những người cùng theo một tôn giáo – theo nghĩa rộng.

Đức Phật đã dạy sự tiếp độ quyến thuộc là một hạnh phúc. Tuy nhiên, ta phải biết phương pháp giúp đỡ, chẳng nên giúp đỡ mà thiếu suy nghĩ hay vì lòng tự ái của mình. Đức Phật giáo giới là giúp đỡ quyến thuộc, nhưng ta phải biết rõ điều lợi hại cho mình và cho quyến thuộc của mình, chớ đừng làm một cách thiếu suy nghĩ.

+ Đức Phật đã từng thực hành ba điều:

  1. Lokatthacariyā: Giúp đỡ người đời.
  2. Ñātatthacariyā: Giúp đỡ quyến thuộc
  3. Buddhatthacariyā: Giúp đỡ Phật tử.

Đức Thế Tôn giúp người đời bằng cách dạy người đời phải giúp đỡ nhau, thương yêu nhau và đừng làm điều gì oan trái, oán thù mà hại nhau, hãy xem nhau như quyến thuộc, không nên phân biệt giai cấp và chủng tộc.

Ngài giúp đỡ Phật tử bằng cách dạy họ phải hành đúng theo con đường thuận thứ: Cõi người, trời rồi mới đi đến nơi giải thoát, chấm dứt khổ đau. Lắm khi đức Phật đến thăm các vị tỳ-khưu bị bịnh – như chính tay ngài tắm rửa săn sóc vị đại đức tên là Grinanda. Ngài đi hóa độ những người hữu duyên – như tên sát nhân hung tàn nhứt trong thời đó, là Vô Não; y đã xách gươm rượt Phật cả 3 do tuần – mỗi do tuần 16 cây số ngàn – vẫn được ngài hóa độ trở nên một vị A-la-hán.

Còn đối với quyến thuộc, sau khi xuất gia, ngài không còn lưu luyến và cũng chẳng màng gì đến sự giúp đỡ của quyến thuộc, vì ngài đã thoát vòng của thế tục. Nhưng đức Phật cũng không bỏ quyến thuộc, khi biết hai họ – Koliya là họ mẹ và Sākya là họ cha – vì giành lấy dòng nước mà đem binh ra đánh nhau; ngài đã ngự đến thuyết pháp, khuyên hai họ bỏ chuyện hận thù gươm giáo. Lần khác, biết rằng thái tử Viḍūḍabha sẽ đem binh về tiêu diệt giòng Thích-ca, đức Phật mới ngự đi ngăn cản ba lần; đến lần thứ tư, ngài không ngăn cản nữa vì biết rằng oan trái của hai bên rất nặng, cái nghiệp dữ đã đến với họ.

Nếu có người hỏi: Đã nói rằng, Phật là đấng thông hiểu cả mọi việc, vậy ngài đã biết là không thể ngăn cản được, tại sao phải mất công đi ngăn chặn tới 3 lần? Dĩ nhiên, đức Phật biết rõ như thế, nhưng ngài phải để lại một tấm gương, một bài học là lo cho quyến thuộc, ngăn ngừa tai họa cho quyến thuộc hết mình. Bài học thứ hai là không ai có thể tránh khỏi quả dữ của nghiệp khi nghiệp ấy đến thời trổ quả – dù năng lực thần thông siêu nhiên của đức Chánh Đẳng Giác cũng phải bất lực, bó tay! Mỗi người hãy tự cứu mình!

Khi ta suy nghĩ kỹ lại, thì sự giúp đỡ quyến thuộc của đức Phật trong trường hợp này hàm tàng nhiều ý nghĩa, nhưng nổi bật là: Ngài giúp quyến thuộc là một chuyện và cái nghiệp của quyến thuộc lại là chuyện khác.

+ Theo Phật giáo, có 4 cách giúp đỡ quyến thuộc rất hiệu quả sau đây:

  1. Dāna: Giúp đỡ vật chất như tiền của, cơm nước, y phục, thuốc men, nhà cửa; không để cho quyến thuộc phải cực khổ vì thiếu thốn trong mọi nhu cầu sinh hoạt.
  2. Piyavācā: Lời nói êm dịu, thương mến, hòa nhã. Ý nói khi nào mình giàu sang, có quyền chức, đối với quyến thuộc, phải một mực thương yêu, không vì lẽ có quyền chức giàu sang mà khinh khi quyến thuộc, nói lời bất nhã.
  3. Atthacariyā: Ráng giúp đỡ quyến thuộc được nhiều lợi ích hợp pháp, đúng đắn, chơn chính… Ý muốn nói, khi quyến thuộc gặp tai nạn, ta nên giúp của cải, nhu cầu tùy theo sức mình – nhưng sự giúp đỡ ấy không có hại cho mình mà quyến thuộc thì được lợi lạc, an vui thật sự.
  4. Samatta: Chữ Pāḷi này, danh từ có nghĩa là sự bình đẳng, bằng nhau; tính từ có nghĩa là đầy đủ, trọn vẹn. Nhưng theo văn cảnh thì có nghĩa là phải biết kính trọng bậc trưởng thượng, thương yêu người nhỏ, nể nang người ngang hàng với mình, không hống hách hay khi dể, coi thường quyến thuộc.

Tóm lại, theo đức Phật dạy, có hai cách giúp đỡ quyến thuộc sau đây:

– Amisasaṅgaha: Giúp đỡ tài chánh, vật chất.

– Dhammasaṅgaha: Giúp đỡ bằng cách khuyên lơn quyến thuộc bỏ dữ về lành, tu hành theo chánh pháp để an vui và hạnh phúc nhiều đời, sau đó là chấm dứt luân hồi khổ.

+ Giúp đỡ quyến thuộc sẽ hoạch đắc những điều hạnh phúc như sau:

  1. Đại phước cho mình.
  2. Quyến thuộc nhớ đến mình luôn luôn.
  3. Càng ngày càng gần gũi với quyến thuộc.
  4. Quyến thuộc kính mến.
  5. Quyến thuộc càng ngày càng đoàn kết chặt chẽ.
  6. Sự thương yêu lẫn nhau càng ngày càng gia tăng.
  7. Đó là pháp cao thượng trong Phật pháp.
  8. Đó là việc làm của các bậc trí thức
  9. Đó là gương mẫu cho kẻ hậu sanh.
  10. Là con đường đi của các bậc trí thức.
  11. Là con đường đi đến thiên đàng.
  12. Không còn oan trái và kinh sợ.
  13. Lợi ích cho mình trong kiếp này và vị lai.
  14. Là duyên đưa đi đến an lạc.
  15. Cũng là nhân duyên cho con đường Niết-bàn về sau.

Tích xưa về sự bảo vệ quyến thuộc

“- Thời quá khứ, đức Bồ Tát sanh làm chó Chúa ở ven rừng gần thành Bārāṇasī.

Ngày nọ, đức vua Bārāṇasī ngự xem vườn thượng uyển bằng xe ngựa. Tối về, người xa phu để xe ở trước sân mà quên cất yên ngựa và các đồ đai da phụ tùng. Đêm ấy trời mưa to, những con chó săn của vua ở trong cung mới cắn đứt và ăn hết tất cả các đồ đai da phụ tùng ấy. Sáng ngày, người xa phu thấy vậy lấy làm kinh sợ, mới vào tâu với vua rồi đổ tội cho những con chó ngoài thành lén vào và làm việc tày trời ấy. Đức vua cả giận, không truy hỏi nguồn cơn, truyền lệnh cho quân lính lùng sục khắp nơi – hễ thấy chó là giết, bất kể chó ấy của ai, ở đâu.

Chó Chúa lúc ấy ở ven rừng, cai quản một đoàn chó mấy ngàn con – thấy quyến thuộc của mình bị thảm sát, bị giết một cách tàn ác và đã chết rất nhiều, mới nghĩ rằng: “Ta phải làm sao để cứu giúp quyến thuộc thoát khỏi tai nạn này”. Rồi chó Chúa phát nguyện pháp ba-la-mật, cầu xin phước báu để vượt qua vòng cương tỏa của quân binh ở các cổng thành. Phát nguyện xong, khởi năng lực của tâm từ, chó Chúa liền chạy một mạch đến vương cung vào gặp vua mà không bị ai phát hiện. Trông thấy chó Chúa – do phước tướng cao sang, uy nghi và năng lực của tâm từ – đức vua liền phát sanh thiện cảm, nên không cho ai đụng đến chó rồi phán hỏi lý do.

Chó chúa kính cẩn quỳ xuống, lễ phép thưa:

– Tâu Đại vương! Có phải ngài đã ra lịnh tru diệt hết tất cả loài chó trong quốc độ không?

Đức vua đáp:

– Phải, ta có ra lịnh ấy, vì tội của chúng là dám vào hoàng cung cắn xé và nhai nuốt toàn bộ yên cương, đai da trang điểm quý báu của ta!

Chó Chúa tâu:

– Bạch Đại vương! Thật sự là ngài có thấy rõ, biết rõ những con chó nào đã ăn những đồ vật ấy chăng?

Đức vua đáp:

– Không, ta chỉ nghe tên xa phu nói lại!

Chó Chúa hỏi tiếp:

– Vậy, xin thưa, người xa phu ấy chắc là đã tận mắt mình thấy, mình biết – phải thế không, Đại vương?

Đức vua trầm ngâm:

– Đêm ấy mưa to gió lớn nên có lẽ y chỉ suy luận, phỏng đoán mà thôi!

Đến ngang đây, chó Chúa chợt cất giọng uy nghiêm như một vị quan tòa:

– Là một bậc nhân chủ, là một vị minh quân – lẽ nào khi chưa thấy rõ, biết rõ, lại dựa trên sự phỏng đoán, suy luận của một người xa phu – mà đại vương lại ra nghiêm lệnh giết tất cả loài chó trong thiên hạ? Hành động ấy là chơn chánh hay không chơn chánh? Là công lý hay không phải công lý? Là đúng pháp hay không đúng pháp, tâu Đại vương!

Đức vua sợ hãi, trán toát mồ hôi, không thốt được một lời trước những câu hỏi nghiêm khắc, nặng tợ ngàn cân ấy!

Chưa thôi, chó Chúa buộc tội tiếp:

– Như thế, chứng tỏ đại vương chưa có đủ 10 vương pháp trị dân – lại còn rơi vào bốn pháp thiên vị rất nguy hiểm nữa – ấy là thiên vị vì thương, thiên vị vì giận, thiên vị vì si mê, thiên vị vì sợ hãi. Nếu 10 vương pháp trị quốc mà không đầy đủ hoặc khiếm khuyết thì kỹ cương, triều chính sẽ không ổn định, muôn dân theo đó sẽ lầm than, đau khổ. Còn nếu theo 4 pháp thiên vị mà hành động – thì chính đức vua sẽ rơi đọa vào các cảnh giới ác đạo, tối tăm và đau khổ, nhà vua có biết chăng?

Đức vua toát mồ hôi lạnh. Sau đó cảm thấy mình học được bài học ngàn vàng về phép trị nước, lấy làm hoan hỉ, trong sạch với chó Chúa nên bình tĩnh hỏi rằng:

– Này vị trí thức! Thế ngài có biết chó nào đã cắn và đã nhai nuốt yên cương, đai da phụ tùng ấy không?

– Tâu Đại vương! Sự thật thì chó ngoài thành không thể vào trong cung nội – ngày đêm được canh phòng cẩn mật – để ăn những vật dụng ấy. Thủ phạm chính là những con chó săn của bệ hạ. Nếu Hoàng thượng còn nghi ngờ, xin lấy mỡ rồi đâm cỏ may trộn vào cho chó trong cung ăn thì chúng sẽ mửa ra lập tức đồ bằng da ấy. Tại sao vậy, vì những đai da được trui thuộc công phu, kỹ càng, ở trong bụng chó 5, 7 ngày vẫn chưa tiêu hóa được!

Đức vua lập tức truyền cho thị thần làm y như lời thì rõ ra chó trong cung nội đã ăn những đai da ấy.

Đức vua xiết bao cảm kích, mời chó ngồi lên trên ghế và cúng dường như một nhà sư.

Chó Chúa  mới thuyết rằng:

– Tâu Đại vương! Xin ngài hãy hành theo thập thiện và phụng dưỡng mẹ cha, làm như thế mới gọi là cao thượng.

Sau đó, chó Chúa mới khuyến khích đức vua thọ trì ngũ giới. Xong, chó chúa về rừng. Nhà vua truyền ân xá tội cho chó. Và từ ngày ấy đức vua lo hành theo ngũ giới, thập thiện, cai trị quốc độ bằng 10 vương pháp”.

Tích này ngụ ý khuyên ta nên giúp đỡ quyến thuộc lúc lâm nguy, nên hy sinh và bất cứ giờ phút nào ta có thể giúp được, nên giúp liền. Đó là con đường đi của các bậc trí thức.

HẠNH PHÚC XVIII

Anavajjānikammāni: Nết hạnh làm những việc vô tội

(Giữ chánh mạng trong đời)[9]

 Khả năng của người làm việc có thể chia làm 2 phần là:

  1. Người làm việc được.
  2. Người làm việc được kết quả mỹ mãn.

Pháp hạnh phúc thứ X dạy làm việc không nên bỏ dở, nghĩa là làm việc gì cũng phải cho đến chốn đến nơi. Hạnh phúc thứ XVIII này lại dạy ta về làm những việc vô tội.

Theo quan niệm thông thường thì người nào làm được việc thì gọi là hay, là giỏi. Người ta thường khen ngợi những người làm được việc như vậy, nhưng không chịu xét đến tính cách và hậu quả của việc ấy, nó tốt hay nó xấu – tức là tính chất đạo đức của công việc! Chính tính chất tốt xấu, đạo đức của công việc mới nói lên giá trị của việc làm – phải biết dựa theo tiêu chuẩn đức lý ngàn đời của Phật giáo, chiếu theo hạnh phúc thứ XVIII.

Trong hạnh phúc XVIII này, đức Phật dạy: Làm việc chân chánh là làm việc hoàn toàn vô tội. Việc làm vô tội nơi đây chia ra làm hai phần: Việc làm và người làm việc.

+ Phật dạy có 3 việc làm vô tội:

  1. Việc làm do thân.
  2. Việc làm do khẩu.
  3. Việc làm do ý.

Tóm lại là làm, nói và suy nghĩ đều phải là vô tội.

Việc làm do thân là việc làm nặng nề. Những việc ấy phải là việc vô tội: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm…

Việc làm do khẩu là dạy học, hay giảng đạo cho người nghe, tuyệt đối không cho phạm vào giới nói dối.

Việc làm do ý là suy nghĩ điều thiện như học tham thiền và đánh đuổi ý ác như cột oan trái oán thù…

Quí vị đạo hữu có nhiều tuổi, không còn làm việc nặng nề và không dạy học hay diễn thuyết về Phật pháp, quý vị phải làm những gì? Thiết tưởng quý vị nên học tham thiền và quan sát tâm, không cho tham luyến thái quá vào việc đời để vun đắp con đường vị lai.

Tuy nhiên việc làm bằng tâm như thế chẳng phải riêng để cho quý vị lớn tuổi mà cho tất cả các hạng người trong thế gian, phương pháp này là phương pháp làm cho tâm mình được yên tịnh và đi theo chánh đạo.

Việc làm vô tội

Việc làm thế nào gọi là việc làm vô tội ?

Việc làm vô tội là việc làm theo đúng lời Phật dạy. Theo quan niệm ở đời thì việc làm có tội là việc gì chính phủ đã ra điều luật ngăn cấm mà ta còn phạm vào là tội. Có vị học theo tạng Abhidhamma lại dạy rằng, điều nào ta làm dẫu hợp với chánh pháp như bố thí, trì giới hay tham thiền, mà lòng mình còn mong mỏi sanh trong vòng tam giới thì cũng gọi là có tội! Tại sao vậy? Vì tất thảy mọi phước hữu lậu (vattagāminikusala) đều là phước dẫn chúng sanh đi vào luân hồi trong sanh tử. Do thế, điều ta làm mặc dầu là thiện, nhưng vì còn muốn sanh trong tam giới, thế là vẫn còn đeo mang trầm luân, là việc làm có tội – theo nghĩa rốt ráo.

Có vị lại dạy: Việc làm vô tội là phải hành theo minh sát tuệ.

Hai định nghĩa trên đây về giáo lý rất đúng; nhưng rất tiếc, vì thật là khó, không đem ra thực hành được. Đây tôi xin ví dụ. Có người đi đường buổi trưa nóng bức, khát nước, múc nước vũng bên đường uống. Nếu y múc nước phớt trên, thì bị rong bèo trên mặt nước, còn múc xuống quá sâu thì bị nhằm bùn, bề nào cũng uống không được.

Muốn có nước uống được thì y phải lấy tay khỏa rong rêu đi và múc nhè nhẹ. Người học pháp này rồi hành theo pháp ấy, cũng vậy, nếu hiểu một cách nông cạn, thì không được chu đáo, làm sao hành được. Còn bằng nghĩ cao sâu quá, cũng khó mà hành theo, vì lắm khi pháp ấy không phù hợp với trường hợp của mình đang hành. Vì vậy pháp sư cũng như người hành đạo đều phải biết pháp nào thích hợp với hoàn cảnh, mới có thể hành theo được.

Phạn ngữ vajja nghĩa là tội lỗi. Nhưng tội lỗi đây không phải là tội lỗi đối với chính phủ khiến bị phạt, bị tù hay bị cách chức. Vajja còn có nghĩa là bị la rầy, bị chỉ trích, bị phê bình. Vì quan niệm khác biệt như vậy, nên chư đại đức thường bị người đời chỉ trích theo quan niệm đời. Thường thì người đời thấy việc nào đó và xem là có tội, nhưng chư đại đức thì không thấy như thế. Đúng vậy, cái tội mà người đời thấy, được gọi là lokavajja, tội đối với đời. Ví dụ xưa kia, không có xe hơi nên luật Phật không có giới điều cấm xe hơi. Tuy nhiên, hiện nay, nếu có vị đại đức nào lái xe, chắc chắn sẽ bị người đời chỉ trích, vì người ta chấp rằng chư đại đức là bậc không có gì hơn là ba y che thân và bình bát để xin ăn thôi.

Đức Phật không dạy riêng cho người tại gia hay xuất gia mà dạy chung cho hàng Phật tử nên thận trọng trong những việc mình làm – đừng để bị phê bình hay chỉ trích (vajjakamma).

Tránh khỏi sự phê bình hay chỉ trích ấy, chính là những việc làm vô tội vậy. Những việc làm vô tội hay là những việc làm khỏi bị phê bình, chỉ trích theo Phật dạy: Là những việc làm trong sạch đúng theo chánh pháp, không làm hại mình, không làm hại kẻ khác; đừng vì lợi mình mà hại kẻ khác, hoặc hại mình mà lợi kẻ khác, không có oan trái, oán thù, ganh tỵ.

Những việc làm vô tội ở đời là những việc làm của người đời, như làm ruộng, làm vườn, mua bán, làm công… những việc làm ấy không phạm pháp luật quốc gia, cũng không phạm đạo đức, luân lý chung chung…

Còn những việc làm vô tội theo lý đạo là những việc làm lành, lánh dữ để đem đến hạnh phúc và an vui cho mình trong hiện tại và vị lai; nói cách khác là phải tạo những phước báu như:

  1. Phước báu thiện sanh vào cõi dục giới. Nghĩa là phước thiện này còn lẫn phiền não – nên sau khi quá vãng được sanh lại làm người phú quý hoặc hóa sanh vào sáu cõi trời dục giới – phước này do bố thí, trì giới mà có.
  2. Phước báu thiện sanh vào cõi sắc. Nghĩa là phước này hóa sanh vào cõi phạm thiên hữu sắc. Ở cõi trời này không có dục tính, không có nữ giới, không có vợ như cõi dục; người được sinh vào cõi này là nhờ đắc được từ sơ thiền đến tứ thiền.
  3. Phước báu thiện sanh vào cõi trời vô sắc. Nghĩa là người đắc được thiền vô sắc nên được sanh vào các cõi trời vô sắc. Cõi này không có thân xác, không có sắc, chỉ còn sự vận hành của tứ danh uẩn (thọ, tưởng, hành, thức) mà thôi. Cõi này chỉ thọ hưởng hạnh phúc vi tế của thiền định, cụ thể là nhất tâm và xả.
  4. Phước thắng sanh vào thánh vức. Nghĩa là người đã diệt được lần lượt mọi phiền não trong tâm (tức 10 kiết sử), sau khi quá vãng, được vào tứ đạo quả và Niết-bàn.

+ Sau đây là những việc làm vô tội theo giáo pháp: Thọ trì bát quan trai giới.

Thọ bát quan trai giới được gọi là những việc làm vô tội. Bát quan trai giới làm cho tâm người được lắng sạch những phiền não ở bên trong và đánh đuổi, ngừa đón những phiền não ở bên ngoài, không cho nhập vào tâm.

Tám điều học ấy là:

– Không sát sanh.

– Không trộm cướp.

– Không thông dâm.

– Không nói dối.

– Không uống rượu và các chất say.

– Không ăn sái giờ.

– Không múa hát, xem múa hát; trang điểm nhẫn, xuyến, vòng bằng vàng, bạc, ngọc, kim cương; dùng nước hoa, nhồi phấn, thoa son.

– Không nằm ngồi nơi cao sang, xinh đẹp.

Trong 8 giới điều kể trên, từ điều 1 đến điều 5 là giống như người thọ trì ngũ giới, chỉ khác chỗ thông dâm và tà dâm. Giới tà dâm là không cho tư tình với vợ con kẻ khác, còn giới thông dâm thì, trong ngày bát quan trai giới, dầu vợ nhà cũng không được gần.

Về giới thứ 6, theo nguyên văn của phạn ngữ, không ăn sái giờ là khi bóng đã xế qua một sợi tóc, cũng không ăn gì nữa. Nghĩa là chỉ ăn được từ khi mặt trời mọc cho tới khi đứng bóng. Đức Phật dùng bóng mặt trời làm tiêu chuẩn chớ không cần giờ. Vì đức Phật biết rằng mỗi nơi giờ khắc khác nhau, thì khó cho chư tỳ-khưu theo, nên dùng mặt trời để cho chư tăng sau này làm tiêu chuẩn. Giới này dạy giảm bớt sự ăn để người tu hành bớt bận rộn về ăn uống, có dư thì giờ để niệm Phật, tham thiền. Giới này còn làm cho chúng ta biết thiểu dục, tri túc. Vì miếng ăn mà chúng sanh làm thêm nhiều tội lỗi. Người không ăn cơm chiều, trước chưa quen, thấy khó chịu; sau dần thấy quen, thấy trong người dễ chịu và nhẹ nhàng; lại sinh ra ngủ ít, nhờ vậy mà có thể tham thiền dễ dàng.

Về giới thứ 7: Múa hát, xem múa hát… Đức Phật muốn kềm hãm lại không cho ham mê theo tiếng hay, vị thơm. Lại còn ngăn ngừa những ai vì luyến ái cái thân này, sợ mình già, lo tìm cách che lấp cái già, tô phấn, thoa son để giấu nét nhăn, nhuộm tóc đen lại để che tóc bạc… Không trang điểm thân này bằng vàng, bạc là để xa lần sự luyến ái xác thân, và nhờ vậy, ta mới có thể tu tập thiền định hay hành minh sát tuệ được.

Giới thứ 8: Không nằm ngồi nơi cao sang, xinh đẹp, cốt là để trừ những phiền não phát sanh do ham mê nơi chỗ xúc chạm tốt đẹp, mềm dịu. Khi đã lỡ quen chỗ nằm ngồi mịn màng, cao sang rồi, gặp nơi khác, chỗ khác như gỗ cây, giường ván chẳng hạn, phiền não sẽ sanh lên làm cho tâm bị nhơ đục.

+ Bát quan trai có ba cách khác nhau:

  1. Pakati uposatha: Nghĩa là bát quan trai giới thường. Bát quan trai giới này thọ trì một ngày đêm. Mỗi tháng có 8 ngày là mùng 5, 8, 14, 15, 20, 23, 29, 30 (tháng thiếu thọ ngày 28, 29).Người ta có thể thọ đủ tám ngày, hay là 4 ngày, 2 ngày tùy theo sức mình, không ai bắt buộc.
  2. Paṭijāgara [10]uposatha: Nghĩa là bát quan trai giới theo trật tự, theo đây thì trước ngày chánh của bát quan trai giới một ngày, phải nhớ sửa mình trong ngày ấy, rồi ngày sau là ngày chánh – nên tạm gọi đây là bát quan trai giới thọ ngày rước và đưa. Bát quan trai giới này trong mỗi tháng có 12 ngày 1, 4, 6, 7, 9, 13, 16, 19, 21, 22, 24, 28, (tháng thiếu thì ngày 27).Bát quan trai nầy nếu người thọ đủ mỗi tháng phải thọ 20 ngày (Muốn hiểu rõ xin xem nhựt hành của Ngài Hộ Tông).
  3. Paṭihāriya uposatha: Nghĩa là bát quan trai giới thọ trì từ ngày 16 tháng 6 tới ngày 15 tháng 9, nghĩa là thọ theo ba tháng hạ của chư đại đức tỳ-khưu.

Trong bộ chú giải của bài kinh Uposatha có dạy: Người muốn thọ bát quan trai cho trong sạch, thì trước ngày thọ phải chín chắn trong một ngày đêm không nói tới gạo trắng, gạo đen, cơm khô, cơm nhão; nói tóm lại, chuyện gì ngoài kinh luật nhà Phật, tuyệt nhiên không nói đến.

Chúng ta không nên thọ bát quan trai như người chăn bò, sáng ngày đến lãnh bò lùa ra đồng bỏ đó, mặc kệ bò đói hay no cũng chẳng cần, miễn là chiều đem về giao đủ cho chủ thôi. Người thọ bát quan trai, sáng ra đến thọ trì giới cùng nhà sư, khi thọ xong, về nhà không nghĩ gì với giới cả, chỉ thọ cho có chừng, được phước chút nào hay chút ấy thôi, cả ngày lẫn đêm không có niệm tưởng đến vô thường, khổ não, vô ngã. Người thọ giới như thế gọi là bát quan trai như người chăn bò.

Cũng trong bài kinh Uposatha, đức Phật còn dạy rằng: Nếu có nhà vua ngự trị trên 16 nước lớn trong cõi Diêm-phù-đề này có cả 7 thứ châu báu; và là người có quyền uy sang trọng nhất – nhưng cái phước ấy cũng vẫn không bằng 01 phần 16 [11] của công đức thọ bát quan trai giới một ngày và một đêm.

Đây tôi xin nhắc tích chuyện đức vua Udaya để quí vị thấy quả của bát quan trai giới.

“- Trong thời quá khứ, tại xứ Bārāṇasī, có một ông trưởng giả tên Suciparivā thích làm phước; những người trong gia đình ông, từ vợ con cho đến người ăn kẻ ở, ông đều dạy cho họ thọ trì bát quán trai giới ít lắm một tháng sáu ngày.

Khi ấy, có một người mới đến ở, người ấy làm việc rất siêng năng, không biết rằng tất cả người trong nhà ông đều thọ bát quan trai giới. Ngày nọ nhằm ngày giới, nhân công trong nhà chỉ ăn một buổi thôi. Riêng người làm công mới ấy cứ đi ra đồng làm việc như thường lệ, vì anh không biết. Trong khi ấy những người khác không đi làm, ngồi ở nhà niệm Phật, hoặc quan sát lại cái tâm của mình. Chừng anh đi làm ngoài đồng về, người làm bếp mới dọn cơm ra cho anh ăn.

Anh lấy làm lạ vì mọi khi, giờ này, người trong nhà tụ hội lại ăn uống đông vui, mà bữa nay họ đi đâu mất hết? Anh ta mới hỏi người làm bếp. Người làm bếp đáp: “Những người ấy giữ bát quan trai, nên họ về chỗ nghỉ của họ hết”. Anh ta mới nghĩ rằng: “Ta ở chung với những người có giới hạnh, vậy ta không nên để cho ta thành người không có giới hạnh”. Anh bèn không ăn cơm, vào hầu ông trưởng giả, rồi hỏi rằng: “Thưa ông, nếu tôi phát nguyện thọ bát quan trai giới giờ này, thì tôi có được phước của bát quan trai không?” Vị trưởng giả đáp: “Nếu ngươi thọ từ bây giờ thì chỉ được một nửa ngày phước thôi”. Anh ấy bèn nghĩ rằng: “Dầu phân nửa cũng được, còn hơn không có”. Rồi anh mới xin phát nguyện thọ trì. Sau khi thọ xong về chỗ nghỉ, anh ta quan sát về cái tâm của mình, giữ cái tốt và xa cái xấu – như chủ dạy bảo. Vì cả ngày làm việc vất vả, tối không có ăn gì, đến khuya, anh bị trúng gió độc. Ông trưởng giả đem thuốc và vật thực lại cho anh và bảo rằng, con hãy dùng thuốc và vật thực này đi, kẻo cơ thể không quen, nguy hiểm lắm đó!”

Anh ta thầm nghĩ: “Ta nguyện không phạm giới, khi đã phát nguyện thọ trì”. Anh mới trả lời với vị trưởng giả rằng: “Hãy cho con giữ giới cho được trong sạch, dầu chết con cũng không bỏ cuộc!”

Đến rạng đông, anh không còn sức chịu đựng nổi nên mê man. Người nhà mới cho rằng anh sắp chết, nên khiêng ra để ngoài hiên, vì người thời ấy không để người chết trong nhà.

Ngày ấy, đức vua Bārāṇasī ngự đi quanh thành để xem sự sinh sống của nhân dân. Anh làm công ấy trông thấy sự sang trọng của nhà vua, liền thầm ước muốn được như vua. Anh chết liền trong khi mơ ước như vậy, anh được sanh vào lòng hoàng hậu của đức vua – do nhờ phước quả của bát quan trai giới. Sau khi anh được sanh ra, đức vua đặt tên anh là Udaya. Khi được nối ngôi của vua cha, Udaya nhớ kiếp trước nên ráng lo tu hành tinh tấn hơn nữa”.

Khi đức Thế Tôn kể câu huyện này xong, ngài mới dạy rằng: “Này các thầy tỳ-khưu! Một khi người đã thọ bát quan trai giới, thì gọi là làm những việc lành như các bậc trí thức xưa kia đã được hưởng quả cao quý ấy”.

+ Những việc làm vô tội theo Phật dạy, tổng cộng có 10 điều sau đây:

  1. Pakati [12] uposatha: Bát quan trai giới thường, nghĩa là thọ một ngày một đêm thôi.
  2. Veyyāvaccakaraṇaṃ: Giúp đỡ nhau theo lẽ đạo.
  3. Ārāmarupā: Cất chùa
  4. Vanarupā: Trồng cây.
  5. Setukaraṇa: Làm cầu.
  6. Papa [13]: Đào giếng.
  7. Udapāna [14]: Để những chum nước dọc theo đường cho người bộ hành uống.
  8. Upasava [15]: Làm những thảo xá dọc theo đường cho người lữ hành có chỗ dừng chân.
  9. Dhammattha [16]: Bố thí tham thiền.
  10. Sīlasampanna: Có giới hạnh trong sạch.

+ Làm những việc vô tội có những hạnh phúc là:

  1. Gọi là người chuẩn bị sẵn sàng trước khi chết.
  2. Là đại phúc.
  3. Ngăn đường ác đạo.
  4. Diệt được phiền não.
  5. Là người hộ trì Phật giáo.
  6. Là người cúng dường cao quý đến Tam Bảo bằng hành đạo
  7. Được hạnh phúc tùy theo ba-la-mật của mình đã làm.

 

[1] Ghi chú lại cho rõ nghĩa: Cho với tâm yêu thương, mong cho người được hạnh phúc, an vui – là cho với tâm từ. Cho với tâm bi mẫn, xót thương, muốn chia sẻ, an ủi – là cho với tâm bi.

[2] Trong kinh điển, nhiều nhất là trong Túc sanh truyện, hằng trăm câu chuyện về bố thí được làm triệu phú, công chúa, hoàng hậu, hoàng đế, Chuyển luân Thánh vương, các cõi trời – và đấy là ước mơ chung của chúng sanh. Để cho rõ ràng về nhân quả của sự bố thí, tôi sẽ liệt kê ra đây 7 loại bố thí có nhân quả khác nhau – để độc giả cùng tham khảo:

   1/- Bố thí mong cầu nhân quả – quả báo tương đương cảnh giới Tứ đại thiên vương.

   2/- Bố thí với tâm không mệt mỏi từ thiện xã hội – quả báo tương đương cõi trời Đao Lợi.

3/- Bố thí hiếu danh như đứng giữa ngã tư đường để mọi người đều hay biết – quả  báo tương đương cõi trời Dạ Ma.

4/- Bố thí với tâm cúng dường đến Tam Bảo, nghĩ đến Tăng-già, lo cho Tăng-già; và, bố thí với tâm từ, tâm bi đến chúng sanh – quả báo tương đương cõi trời Đẩu Suất.

5/- Bố thí rất nhiều nhưng với tâm hiếu lợi, hiếu danh – quả báo tương đương cõi trời Hóa lạc.

6/- Bố thí không xiết kể, ngoài hiếu lợi, hiếu danh còn ẩn bên sau thủ đoạn và  mưu đồ nữa – quả báo tương đương cõi trời Tha hóa tự tại. Vị vua cõi này  là Đại ma vương.

7/- Bố thí với tâm không dính mắc, xả ly, giải thoát là sự bố thí của bậc Thánh.

[3] Đã ghi chú là 8 vạn 4 ngàn chi pháp.

[4]  10 hồng danh là gọi quen, viết quen theo truyền thống kinh điển của Trung Quốc sau truyền sang Việt Nam. Riêng truyền thống Nam truyền, đại biểu là Myanmar thì chỉ có 9. Tôi ghi ra đây để độc giả tiện so sánh, nghiên cứu – chứ không muốn nói  đâu đúng, đâu sai.  9 hồng danh là: 1)- Arahaṃ (A-la-hán); 2)- Sammā Sambuddho (Chánh Biến Tri hay Chánh Đẳng Giác); 3)- Vijjā-carana-sampanno (Minh Hạnh Túc); 4)- Sugato (Thiện Thệ); 5)- Lokavidū (Thế Gian Giải); 6)- Anuttaro Purisadammasārathi (Vô Thượng Điều Ngự Trượng Phu); 7)- Satthādevamanussānaṃ (Thiên Nhân Sư); 8)- Buddho (Phật); 9)- Bhagavā (Thế Tôn).

[5] Tôn trọng cách giải thích riêng của pháp sư.

[6] Chủ, chúa, người thống trị…

[7] Trong bài có phân làm 03 cấp, nhưng chỉ giảng 01 cấp là sơ cấp, không thấy bậc trung và bậc thượng.

[8] Ñātaka: Bà con thân quyến.

[9] Anavajja: Trong sạch, không uế nhiễm. Kamma: Nghề, nghề nuôi mạng. Vậy, Anavajjāni kammāni: Nghề nuôi mạng trong sạch, chơn chánh – tức là tránh xa 5 nghề tà mạng. Đại sư Viên Minh chuyển ý câu này là: Giữ chánh mạng trong đời!

[10]  Jāgara: thức tỉnh, minh mẫn…

[11] Đây thường là con số tượng trưng, khái quát của người Ấn xưa, chúng ta thường tìm thấy trong kinh điển – tương tợ 8 vạn 4 ngàn vậy.

[12] Pakati: Tự nhiên, thiên nhiên – ở đây có nghĩa là thông thường.

[13] Danh từ, chỉ có nghĩa là nước, nước uống.

[14] Danh từ, chỉ là cái giếng nước.

[15] Tìm thấy từ tương đương: upassaya – chỗ ở, nơi cư ngụ.

[16] Dhammattha: Sự lợi ích của pháp. Dhammaṭṭha: Người sống với hạnh kiểm chơn chánh.

 

 

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app