2. ĐỨC PHẬT VÀ ĐẠO PHẬT.

Bất cứ khi nào nhắc đến Đạo Phật thì trước tiên các Phật tử phải nhắc tới Tam Bảo: Đức Bổn Sư, Giáo Pháp và Tăng Chúng của Ngài.

Trước khi thành đạo, Đức Phật là một Hoàng Tử, Ngài chào đời tại rừng Lum-bi-ni, biên giới xứ Nepal bây giờ. Phụ vương của Ngài là vua Suddhodana, hoàng tộc Sakya, kinh đô của Vương quốc là hoàng thành Kapilavatthu. Mẹ của Ngài là Hoàng Hậu Mày à. Bà từ trần ngay sau khi sinh hạ hoàng tử được bảy hôm. Hoàng tử được giao lại cho dì ruột là Hoàng hậu Gotamì chăm sóc.

Hoàng tử Gotama có một tuổi trẻ cực kỳ hạnh phúc. Vợ Ngài là công nương Yasodharà và nàng đã có với Ngài một hoàng nam tên là Ràhula.

Theo kinh điển truyền thống thì ý tưởng xuất gia tu hành của Hoàng tử Gotama được bắt đầu khi một lần nhìn thấy các cung nữ nằm ngủ ở tẩm cung trong tư thế rã rời mệt mỏi và tiếp theo đó là những cảnh tượng già yếu, chết chóc, bệnh hoạn mà Ngài đã tận mắt nhìn thấy trong một chuyến du ngoạn ngoại thành. Sau cùng, hoàng tử đã ra đi xuất gia. Năm ấy, Ngài vừa đúng 29 tuổi đời.

Hành trình tìm đạo đã đưa Hoàng tử tới Vesàli. Tại đây, Ngài học đạo với Alàra Kàlàma. Alàra Kàlàma vốn là một môn đồ của tông phái Sankhya (số luận), một dòng triết học thời danh nổi tiếng đến tận hôm nay. Nhưng rồi những gì tông phái này có được vẫn không sao thỏa lòng cầu Pháp giải thoát của hoàng tử.

Ngài lại ra đi và lần này Ngài tìm đến nhập môn với đạo sĩ Uddaka Ràmaputta ở Ràjagaha. Cũng chẳng tìm thấy cứu cánh giải thoát thật sự nơi vị thầy thứ hai này, hoàng tử tiếp tục lặng lẽ từ biệt sư môn thêm lần nữa.

Với một ý chí mãnh liệt, hoàng tử kết bạn với năm vị ẩn sĩ Bà-la-môn gặp được trên đường và quyết định chọn lấy pháp môn khổ hạnh ép xác. Ngài đã kinh qua tất cả những đau đớn thể xác một cách trọn vẹn. Nhưng rồi một hôm, trên đỉnh điểm tận cùng của sự suy nhược, Ngài bắt đầu ăn uống và sinh hoạt bình thường như mọi người. Thái độ này khiến năm người bạn đồng đạo thất vọng về Ngài. Họ rủ nhau bỏ rơi hoàng tử.

Còn lại một mình, hoàng tử đắm mình thiền định dưới một gốc cây trong rừng Uruvela. Chính tại đây, Ngài đã chứng đạt quả vị tu chứng cao nhất của đời sống phạm hạnh là trở thành một bậc Chánh Đẳng Giác, một Đấng Phật-đà. Ngài muốn chia sẻ trí tuệ giác ngộ ấy đến những người Thầy cũ nhưng lúc này, cả hai vị đạo sư khả kính đều đã qua đời mấy ngày trước đó…

Đức Phật tìm đến Isipatana (nay là Sarnath) và thuyết giảng thời pháp đầu tiên cho năm vị ẩn sĩ Bà-la-môn. Các vị đã quay về với Đức Phật và thầy trò cùng đi về Ràjagaha, xứ Magadha. Tại đây, Đức Phật đã chính thức xác lập hệ thống giáo lý của mình trước các dòng giáo lý khác và từ đó tế độ thêm rất nhiều môn đệ Tăng – Tục trong thời gian tạm thời lưu trú để chuẩn bị tiếp tục lên đường du hóa. Trong số các đệ tử gặp ở Ràjagaha, đáng kể nhất là hai vị cao đồ Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên. Cũng chính tại thành phố, các nhân vật danh tiếng như triệu phú Cấp-cô-độc, vua Bình-sa-vương, vua A-xà-thế đã lần lượt quy ngưỡng Đức Phật. Sau Ràjagaha, Đức Phật đã tuần tự ngự đến Gàya, Nàlandà, Pàỉaliputta.

Hai năm sau ngày thành đạo, Đức Phật đã trở về thăm lại kinh đô Kapilavatthu. Ơ đây, Ngài đã tế độ hoàng tử Ràhula và Di mẫu Gotami cùng nhiều thân quyến trong Hoàng tộc Thích Ca.

Vào thời điểm này, vương quốc Kosala (kinh đô mang tên Sàvatthi) đang là địa bàn quan trọng của Bà-la-môn giáo. Triệu phú Cấp-cô-độc đã hiến cúng đến Đức Phật ngôi đại tự Jetavana (Kỳ Viên) tại kinh đô Sàvatthi.

Trong suốt một thời gian dài lưu trú ở ngôi đại tự này, Đức Phật đã thuyết giảng rất nhiều Pháp thoại và ban hành không ít các học giới cho Luật Tạng. Chính tại kinh đô Sàvatthi, vua Pasenadi đã quy y với đức Phật và đại tín nữ Visàkhà đã kiến tạo đại tự Pubbàràma, đồng thời đặt cơ sở hộ độ Ni chúng. Ơ Vesàli, Đức Phật cũng từng sống qua một thời gian. Tại đây một danh kỹ nữ tên Ambapàli đã trở thành Phật tử và cúng dường đến chúng Tăng khu vười xoài của mình.

Cũng tại Vesàli này, Đức Phật bất đắc dĩ theo lời yêu cầu của Trưởng lão Ananda và Di mẫu Gotami mà chấp nhận cho nữ giới được xuất gia, thành lập giáo hội Ni chúng.

Dân chúng thuộc bộ tộc Malla vốn không mấy biệt tình với Đức Phật nhưng cũng có khá nhiều cá nhân trong số đó đã trở thành Phật tử.

Bên cạnh đó, Đức Phật còn du hoá đến tận Kosambì và Mathurà.

Vào những ngày cuối đời, Đức Phật đã tìm về Pàvà và tiện đường Ngài ghé vào khu vườn xoài của thợ rèn Cunda. Ong này đã làm cơm cúng dường đến Ngài cùng chư Tăng tùy tùng. Tương truyền rằng Đức Phật đã bị ngộ độc bởi thức ăn và viên tịch. Triều đình và dân chúng Malla đã cùng nhau lo việc tống táng Thế Tôn. Di cốt của Ngài đã được vua chúa các nước rước về lập tháp phụng thờ.

Nội dung chính yếu trong lời dạy của Đức Phật là xác định bản chất đau khổ của đời sống, rằng sự có mặt của chúng sinh trong đời chỉ là để bị đày đọa triền miên. Cứu cánh Niết-bàn là sự đình chỉ tham ái và chính sự đình chỉ này dẫn tới việc chấm dứt tái sinh. Lý tưởng chứng đạt Niết-bàn có ý nghĩa là hoàn thiện bản thân, hoàn tất những gì Phải Hoàn Tất và bao dung vạn hữu. Đức Phật khẳng định rằng sự giải thoát không thể có được từ những nghi thức…

Qua Kinh Tạng (một trong ba Tạng Kinh điển Phật môn), chúng ta luôn có thể học được những gì Đức Phật dạy. Tuy nhiên, để xác định đâu là những Phật ngôn thật sự nguyên thủy thì không dễ dàng tí nào, bởi qua thời gian, đã có không ít những gia cố từ các lần san định.

Và chúng ta cũng phải nhận rằng điểm tương đồng giữa các lời dạy của Đức Phật cùng các phụ gia của chư môn đồ quả là quá lớn, khít khao và chặt chẽ trong từng chỗ một. Tuy vậy, điều cần ghi nhận là hầu hết tinh hoa của Phật Giáo nguyên thủy đều được dàn trải khắp Kinh tạng như sau này chúng ta sẽ có dịp thấy rõ hơn.

Đức Phật đã không ngừng nhấn mạnh với đệ tử của mình rằng việc ngồi yên đó mà nghĩ tưởng về các vấn đề siêu hình viễn vông là một thái độ tiêu cực. Ngài liên tục đề nghị ở các môn đệ khả năng nhận thức sâu thẳm chín chắn về bốn Thánh Đế:

Khổ đế: Mọi sinh hữu đều là khổ nạn. Đó là một sự thật.

Tập đế: Tham ái (lòng ham muốn, dù ở cấp độ nào) là con đường đưa đến sự sinh hữu. Đó là một sự thật.

Diệt đế: Quả thật có một cứu cánh chấm dứt sự sinh hữu qua việc đình chỉ tham ái. Đó là một sự thật.

Đạo đế: Quả thật có một con đường để thực hiện sự đình chỉ tham ái. Đó là một sự thật.

Đạo đế vừa nói trên đây chính là Bát Thánh Đạo. Trong đó, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng được gọi chung là Giới học. Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định được gọi chung là Định học. Chánh Kiến, Chánh Tư Duy được gọi chung là Tuệ Học. Bát Thánh Đạo (tức Ba Vô Lậu Học) còn được gọi là con đường Trung Đạo, nằm độc lập với hai con đường sinh phong cực đoan: Khổ Hạnh (lý tưởng giải thoát đặt trên cơ sở pháp môn hành đạo ép xác khắc khổ quá đáng) và Lợi Dưỡng (lý tưởng giải thoát được thực hiện bằng cách hưởng thụ khoái lạc).

Với trí tuệ thực nghiệm có được từ con đường Trung Đạo, các đệ tử của Đức Phật sẽ luôn nhận thức được bản chất Vô Ngã của mọi hiện tượng tồn tại thay vì không có chánh tri kiến thì người ta luôn ngộ nhận và tìm cái Tôi hư vọng, tách rời hải triều với đại dương.

Trong khi đó, vạn hữu luôn có mặt thông qua sự tương tác giữa các nhân duyên (điều kiện) khác nhau theo một quy luật mà Đức Phật gọi là nguyên tắc Y Tương Sinh và nay ta còn gọi là Giáo Lý Duyên Khởi (Paticcasamuppàda). Không thực hiện được công phu phát triển trí tuệ này thì việc chứng ngộ Bốn Thánh Đạo là điều không thể có được.

Về cái gọi là con người, theo Phật giáo bao gồm 5 thành tố:

Sắc uẩn (thể xác sinh lý); Thọ uẩn (mọi cảm giác của thân tâm); Tưởng uẩn (kinh nghiệm của ý thức); Hành uẩn (khuynh hướng hay thuộc tính thiện ác của ý thức) và Thức uẩn (khả năng nhận biết đơn thuần của ý thức). Các thành tố này luôn là vô ngã, vô thường khổ nạn, phiền phức.

Theo Phật giáo, con người có thể nâng cao nhân cách và sinh thú (chổ tái sinh) bằng cách tu tập thiền định, đặc biệt là bốn pháp Phạm trú: Từ – Bi – Hỷ – Xả (hiểu theo nghĩa chuyên môn của Phật học nguyên thủy).

Dựa vào những nét đại lược trên đây về Phật giáo, trên cái nhìn tổng quan, ta có thể thấy là mặc dù phủ nhận tín ngưỡng Phệ Đà (Veda) nhưng Phật giáo vẫn ít nhiều có điểm tương đồng với giáo lý Ao Nghĩa Thư (Upanishad) cũng của Bà-la-môn giáo, như một số điểm về vấn đề luân hồi, nghiệp báo, thiên giới, địa ngục, bản chất đau khổ của sinh hữu và cứu cánh chấm dứt tái sanh.

Về hệ thống giáo đoàn, Đức Phật đã ban hành các học giới và luật nghi cho Tăng chúng theo một số nguyên tắc hành đạo như sau:

  1. Tế độ xuất gia:

Buổi sơ thời, đích thân Đức Phật chứng minh cho các đệ tử xuất gia. Nhưng về sau, Ngài giao lại công việc này cho các môn đệ cao niên lạp trưởng. Độ tuổi tối thiểu của giới tử phải là 15 (theo nghiên cứu nào đó của tác giả (lời người dịch)) và có sự đồng ý của gia đình.

Người muốn xuất gia trước hết phải cạo sạch râu tóc và chuẩn bị một bộ y ca-sa. Sau đó, vị thầy sẽ đưa đến gặp ít nhất mười vị Tỳ kheo để làm lễ tu trước sự chứng minh của các vị. Nếu chư Tăng không ai có ý kiến phản đối gì thì coi như giới tử đã chính thức trở thành một sa di thực thụ với mười học giới bắt buộc phải chấp trì: không sát sanh, không trộm cắp, không hành dâm, không nói dối, không sử dụng thức uống gây say, không ăn quá giờ quy định, không tham gia hay thưởng thức khiêu vũ thanh nhạc, không sử dụng các món mỹ phẩm hay trang vật, không sử dụng những chỗ nằm ngồi sang trọng, không sở hữu kim tiền châu báu.

Khi đã đủ hai mươi tuổi, nếu muốn, vị sa- di có thể thọ đại giới để trở thành một Tỳ Kheo, giới phẩm cao nhất của Tăng đoàn.

  1. Tự viện:

Luật tạng nguyên thủy cũng có vài quy định về chỗ cư ngụ của Tăng chúng mà nay ta gọi là Tự Viện. Một ngôi chùa hoàn chỉnh cần có những khu vực sinh hoạt nhất định nhưng phải đơn giản và cần thiết như thiền đường, bố tát đường (để làm Tăng sự), liêu phòng, nhà kho, giếng nước, chổ tắm giặt,…

  1. Vấn đề ăn mặc:

Thường thì trang phục của một vị Sư chỉ gồm thượng y (y vai trái), hạ y (y nội), và y tắm (y mặc bên trong y nội). Màu sắc phải đúng quy định, không tự tiện, thường là các màu vàng sẫm hay là màu đà. Đời sống căn bản của tu sĩ nguyên thủy chủ yếu là nhờ vào việc khất thực, dĩ nhiên cũng có thể nhận lời mời của các tín gia.

Nói chung, sa-môn Phật giáo được tùy duyên nhận lãnh các thức cúng dường nhưng khôngđược đòi hỏi hay biểu hiện ý thích của mình trong việc ăn uống.

  1. Tăng sự phát lồ:

Cứ mỗi nửa tháng, Tăng chúng thường họp mặt nhau một lần. Trong cuộc họp mặt này, các vị sẽ trùng tụng các học giới và cá nhân Tỳ kheo nào cũng phải tự kiểm điểm mình trước Tăng Chúng bằng cách tự thú (nếu đã phạm học giới nào đó) hoặc yêu cầu tập thể chỉ bày cho mình. Đối với trường hợp bị xem là phạm giới, đương sự phải sám hối trước Tăng chúng để sẵn sàng chịu phạt trong hình thức nào đó. Các pháp hội cho Tăng tục cũng thường được tiến hành vào dịp này, ngay sau lễ Phát lộ (nhận tội) của chư Tỳ Kheo.

  1. Mùa an cư cấm túc:

Vào mấy tháng mưa, chư Tăng Phật Giáo phải sống yên một nơi và hầu như phải nhờ cậy vào sự hộ độ của các tín gia địa phương. Sau mùa an cư này, các vị lại họp mặt nhau để xin được chỉ ra những lỗi lầm mà mình có thể đã mắc phải trong suốt mùa cấm túc. Luật tạng gọi Tăng sự này là lễ Tự Tứ (Pavàraịà).

  1. Tổ chức Ni chúng (nữ tu)

Đức Phật đã có những quy định về tổ chức giáo hội Ni chúng và chư Tăng luôn có trách nhiệm giám sát, quản chế tổ chức này.

  1. Trật tự hoạt động của Tăng chúng:

Dù là ở đâu, Tăng chúng cũng thường chọn ra một vị Trưởng Lão để xem là người lãnh đạo cho mình. Trong nội bộ Tăng chúng luôn có những vấn đề phải được đem ra giải quyết trước tập thể và ở đây cũng không loại trừ phương thức trưng cầu ý kiến, từ việc tiếp nhận người tu vào trong Giáo hội cho đến chuyện tuyên phạt một cá nhân phạm tội và trong mọi trường hợp, nguyên tắc xử lý sự vụ của Tăng Chúng luôn là đa số thắng thiểu số. Bên cạnh đó, ở mỗi cơ sở tự viện độc lập, chư Tăng còn thường chỉ định người để giao phó các trách mhiệm lo lắng về sinh hoạt chung của đám đông như chức vụ Tri phạn (lo việc trai thực), Bố xứ (lo việc sắp xếp chổ ngủ nghỉ cho Tăng), Giám tự (coi sóc chuyện nội bộ trong Tăng chúng)… Nếu không được sự nhất trí của cả tập thể thì việc bầu chọn coi như không thành.

 

 

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app